Cài đặt ngày sinh
Cài đặt ngày sinh (DL), giới tính để xem được nhanh nhất

Tam Pháp Ấn là gì? Ý nghĩa của Tam Pháp Ấn trong Phật giáo

Thứ Ba, 22/06/2021 08:14 (GMT+07)
(Lichngaytot.com) Tam Pháp Ấn là học thuyết mang tính pháp định trong hệ thống giáo lý nhà Phật, bao gồm: Vô thường, Khổ và Vô ngã. Đây được coi như là ba phương pháp quán niệm để chuyển hóa tự thân. Cùng tìm hiểu cụ thể Tam Pháp Ấn là gì, cũng như ý nghĩa trong Phật giáo.
Mục lục (Ẩn/Hiện)
 

1. Tam Pháp Ấn là gì?

 
Tam Phap An la gi
 
“Ấn” là chiếc ấn hay khuôn dấu. “Pháp” có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. “Pháp ấn” có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp.
 
Như vậy, Tam Pháp Ấn là ba dấu ấn, tiêu chuẩn chứng nhận chính thực tính chính thống của giáo lý nhà Phật. Cũng là ba phương pháp quán niệm để chuyển hóa tự thân và được xem như chiếc chìa khóa để đạt được niết bàn giải thoát.
 
Tam Pháp Ấn gồm: Vô Thường, Vô Ngã và Khổ. Ba khuôn dấu hay tính chất này nhằm đảm bảo mọi suy tư, ngôn thuyết, diễn giải, thực hành của người Phật tử không vượt ra ngoài mục tiêu giải thoát mà Đức Thế Tôn đã tuyên thuyết. Mọi giáo lý không có ba khuôn ấn trên đều không phải của đạo Phật.
 
Bởi vì có tính chất đặc biệt quan trọng nên được nhắc đến trong hầu hết các kinh điển, từ kinh tạng Nam Tông đến Bắc Tông.
 
Nhìn chung, Pháp Ấn chính là khuôn khổ giáo pháp, là tiêu chuẩn để chứng minh tính đúng đắn, chính thống của giáo lý đạo Phật. Nó không phải là một giáo lý cao siêu, một lời tiên tri mà là con đường, là ấn chứng để chúng ta khám phá bản thân và mọi thứ xung quanh. Sự hiểu biết về ba dấu ấn này là nền tảng, tiền đề để chấm dứt khổ đau trong cuộc sống.

Xem thêm: Tứ diệu đế là gì - Chân lý cốt lõi trong giáo lý nhà Phật
 

2. Nội dung cụ thể của Tam Pháp Ấn

 
Noi dung cua Tam Phap An
 

2.1 Pháp ấn thứ nhất – Vô Thường

 
Pháp Ấn đầu tiên chính là Vô Thường (tiếng Phạn: Anitya), tên gọi đầy đủ là Nhất thiết hành vô thường ấn, nhất thiết hữu pháp vô thường ấn, còn gọi là chư hành vô thường và được gọi tắt là vô thường ấn.
 
“Vô” nghĩa là không, “Thường” nghĩa là thường còn, tồn tại mãi mãi. Vô Thường nghĩa là không có gì thường tồn, bất biến tồn tại mãi mãi mà tất cả các pháp đều luôn luôn thay đổi, biến hoại.
 
Pháp ấn vô thường nghĩa là các pháp hữu vi trên thế gian đều vô thường, không ngừng biến chuyển, dời đổi, sinh diệt không ngừng. Mọi sự vật, hiện tượng không bao giờ đứng yên cũng không mang tính đồng nhất bất biến mà luôn không ngừng vận động, lưu chuyển.
 
Vô thường không chỉ hiện hữu trong thế giới vật chất mà còn xuất hiện trong tâm thức. Vô thường là đặc tính chung của mọi sự sinh ra có điều kiện, là tính chất cơ bản của cuộc sống. Không có vô thường thì không có sự sống, không có sự tồn tại, có tri kiến vô thường thì hành giả mới có thể bước vào Thánh đạo.
 
Chúng sinh thường lầm chấp vô thường là thường nên mới sinh ra thống khổ triền miên. Vô thường là sự biến đổi không ngừng giống như con người, mỗi giây, mỗi ngày, cơ thể sẽ có hàng nghìn, hàng triệu tế bào chết đi, đồng thời sẽ có hàng nghìn, hàng triệu tế bào khác được sinh ra để thay thế.
 
Vô thường được chia làm nhiều loại, có khi được phân thành “sát na vô thường” (sự biến hóa trong từng sát na, có sinh, trụ, dị, diệt) và “tương tục vô thường” (trong thời kỳ có 4 tướng sinh, trụ, dị, diệt nối tiếp nhau).
 
Vô thường có khi được chia thành 3 loại là: Niệm niệm hoại diệt vô thường (trong từng sát na nhỏ đều có ẩn chứa sự hoại diệt vô thường), hòa hợp ly tán vô thường (mọi việc hòa hợp đều sẽ ly tán, tan rã), tất cánh như thị vô thường.
 
Ngoài ra, vô thường cũng được chia làm 3 loại là:
 
- Thân vô thường:
 
Nghĩa là thân này của chúng ta sẽ không thể ước lượng được với thời gian, rồi sẽ có ngày, thân xác này ta không còn giữa được. Thân ta luôn đổi mới, biến dịch không ngừng, tất cả vạn vật đều sẽ chết đi, sẽ biến đổi không ngừng.
 
Thân con người từ lúc sinh ra, lớn lên rồi già đi luôn luôn biến đổi. Vẫn là một con người đó nhưng lúc mới sinh hình dáng thân thể khác với lúc mười tuổi, hai mươi tuổi, ba mươi tuổi.
 
Cũng là con người đó nhưng lúc mở mắt chào đời, cất tiếng khóc đầu tiên khác hoàn toàn với lúc trút hơi thở cuối cùng. Cũng là con người đó khi khỏe mạnh thì đi đứng khoan thai, sức mạnh cường tráng, khác với khi bệnh thì bước đi không vững, cơ thể mỏi mệt, rã rời.
 
Chúng ta nhận định về thân Vô Thường không phải diễn ra trong thời gian đời người dài một trăm năm mà là vô thường diễn ra trong từng giây từng phút. Trong cơ thể ta mỗi giây có biết bao nhiêu tế bào chết đi và bị thay thế bởi những tế bào khác mới sinh ra. Quán sát được sâu sắc như thế mới thấy được tính vô thường của thân người.
 
- Hoàn cảnh vô thường:
 
Nghĩa là không chỉ thân ta thay đổi mà vạn vật quanh ta cũng biến đổi không ngừng.
 
Bởi thế nên mới có câu “Bể biển nương dâu”, khi thì biển tiến lên làm ngập hết những bãi cát, khi biển rút xuống để lộ ra những bãi triều rồi biến thành nơi con người trồng dâu nuôi tằm.
 
Môi trường bên ngoài thay đổi cũng tác động mạnh mẽ đến con người, khi thì ở trong nhà cao cửa rộng, lúc thất thế thì bán sạch cửa nhà mà ra đường xin ăn. Lúc thì lên xe xuống ngựa, đi đâu cũng có người đưa kẻ đón, lại có lúc đi về một mình không ai thèm đoái hoài. Lúc thì được người tuyên dương ca ngợi, khi lại bị kẻ mắng người chê.
 
Nên đã có câu nói vui:
 
“Còn thời cưỡi ngựa bắn cung,

Hết thời cưỡi khỉ lấy dây thun bắn ruồi”.
 
Câu nói tuy nhẹ nhàng vui tươi nhưng cũng đã khái quát được tính vô thường của cuộc đời.
 
- Tâm vô thường:
 
Vô thường không chỉ chi phối thế giới vật chất mà còn chi phối tâm thức con người. Tâm thức của chúng ta luôn không ngừng biến đổi, chuyển biến như dòng suối, dễ dao động, hốt hoảng, khó chế phục.
 
Tâm con người thay đổi liên tục, giây phút trước còn vui, giây sau đã buồn. Hôm nay an lạc hạnh phúc nhưng ngày mai gặp điều không như ý thì lại rơi vào cảnh buồn rầu đau khổ.
 
Chư Tổ sư đã dùng “Tâm viên ý mã” để chỉ cho cái thay đổi liên tục trong tâm ý con người. Tâm giống như những con khỉ đu dây chuyền cành, chuyền từ cành này qua cành kia một cách nhanh chóng không thể bắt được, tâm cũng giống như đàn ngựa hoang không người ghìm giữ khiến nó chạy đi khắp nơi.
 

2.2 Pháp ấn thứ hai – Khổ

 
Khổ (tiếng Phạn: Dukkha) là pháp ấn thứ 2, trong đó, “du” là khó, còn “kkha” là chịu đựng, kham nhẫn, có nghĩa là sự bức bách, đau đớn, khó chịu.
 
Trong tiếng Hán, khổ có nghĩa là đắng, sự đau khổ chứa đựng nhiều vị đắng cay, chua chát, đem đến cảm giác bất an. Khổ hiện diện trong nhiều hình thái khác nhau, ngay cả những trạng thái mà con người cho rằng là hạnh phúc, an vui thì cũng đều là mầm mống của khổ đau.
 
Nếu nói về khổ thì thế gian có rất nhiều cảnh khổ nhưng tựu chung lại và thường được nhắc nhiều nhất là có tám thứ khổ: Sanh là khổ. Già là khổ. Bệnh là khổ. Chết là khổ. Phải sống chung với người mình không thích là khổ. Phải xa lìa những người thân yêu là khổ. Cầu mong mà không được là khổ. Chính thân ngũ uẩn là khổ.
 
Sự thật về khổ được Đức Phật thuyết giảng cho năm vị đệ tử. Khổ được dùng để chỉ cho tất cả mọi hiện tượng vật chất và tâm thức, xuất phát từ ngũ uẩn, chịu ảnh hưởng của vô thường và vô ngã, con đường thoát khổ chính là Bát chánh đạo.
 
Xét theo mức độ và nguyên nhân, khổ còn được chia thành 3 loại là khổ khổ (Dukkha – dukkhata), hành khổ (Samskhara – dukkhata) và hoại khổ (Vinarupaman – dukkhate). Trong đó:
  • Khổ khổ: Là những trạng thái khổ não bức bách, cái khổ này chồng lên cái khổ kia, cảm giác đau bất an, khó chịu trong thân thể và tâm trí.
  • Hoại khổ: Những khổ đau có thể phát sinh từ trạng thái hạnh phúc, lệ thuộc vào định luật vô thường, dù chúng ta có mạnh mẽ, quyền thế, giàu có thế nào đi nữa thì cũng không thể chống đỡ được sự hủy diệt của thời gian.
  • Hành khổ: Là hình thức quan trọng nhất trong Khổ Đế. Hành là các hiện tượng kết tập các điều kiện nhân duyên mà thành. Thân thể, thế giới ngoài ngũ uẩn, các trạng thái tâm lý đều là nhân duyên sanh nên phải chịu ảnh hưởng của vô thường. Sự biến đổi của vô thường sinh ra khổ, cho nên các hiện tượng đều chứa sẵn hạt giống của khổ và còn gọi là hành khổ.
 
Thực tế mọi khổ đau trên đời của con người đều xuất phát từ nội tâm bất an và có cội rễ từ vô minh, ái dục. Mặc dù vô thường là căn nguyên của mọi đau khổ trong cuộc sống nhưng nguyên nhân chính của khổ nằm trong nhận thức và thái độ sống tích cực hay tiêu cực của con người.
 
Sự vật luôn luôn biến đổi vô thường mà chúng ta cứ tưởng và mong ước chúng sẽ thường còn, tồn tại mãi mãi. Chính nhận thức sai lạc, cho những gì vô thường là thường tại cho nên phát sinh mọi khổ đau.
 
Cần phải nhận diện khổ đau để chấp nhận đồng thời tìm ra nguyên nhân và phương pháp diệt khổ. Như vậy, khổ đau là chân lý đầu tiên của Tứ diệu đế. Chỉ cần nhận thức toàn triệt về khổ thì các chân lý khác sẽ hiển bày. Do vậy, cần được quán sát, nhận thức thường trực về khổ đau trong thực tại cuộc sống và cả trong ý thức.
 
Sự ảo tưởng về cuộc đời hạnh phúc, sự ràng buộc trong cuộc sống vật chất, sự hưởng thụ sẽ khiến con người không thể nào hướng đến giải thoát và an tịnh.
 

2.3 Pháp ấn thứ ba – Vô ngã

 
Với pháp ấn thứ 3, Vô ngã được coi là một trong những giáo lý đặc thù, là hệ quả của quá trình quán sát sâu sắc nguyên lý duyên khởi.
 
Ngã là cái tôi, là bản ngã, vô ngã nghĩa là không có cái tôi, không có một cái gì đó vĩnh cửu. Vô ngã là tiến trình tu tập để tâm không còn chấp trước mọi sự vật, hiện tượng, những phiền não, khổ đau.
 
Vô ngã nghĩa là không có sự trường tồn bất biến, không có một đấng sáng tạo vĩnh cữu hay một linh hồn bất diệt, một chủ thể tuyệt đối. Tất cả sự vật sự việc đều do duyên sinh, sự hiện hữu của chúng sinh là sự hiện hữu trong tương quan, chịu tác động của nhân duyên mà thành.
 
Mọi sự vật, sự việc trên đời đều không có tướng trạng cố định, tất cả đều sẽ không ngừng biến đổi, chuyển động không ngừng. Vạn pháp đều không có một tướng nhất định, luôn không ngừng trôi chảy, là một chuỗi vô số tướng trạng.
 
Vô ngã là một trong những pháp ấn quan trọng của Phật giáo. Chúng ta thường đau khổ khi không tìm thấy sự hài lòng trong tâm trí hoặc trong thế giới vật chất. Chúng ta liên tục trải qua những thay đổi, bám chấp, chấp nhất vào những thứ vô thường. Chỉ khi tu tập để tâm không còn chấp trước mọi sự vật, hiện tượng thì mới được thanh tịnh, giải thoát, tự tại.
 
Pháp ấn vô ngã có tính chất xác quyết tính pháp định của Chánh pháp, mang tính đặc thù của giáo lý Đạo Phật. Nếu không nhận thực được tính vô ngã của vạn vật, vạn việc thì sẽ luôn chấp thủy, tham ái, chìm sâu trong cội nguồn của khổ đau, tà kiến.
 

3. Ý nghĩa của Tam Pháp Ấn trong Phật giáo

 
Trong Phật giáo, Tam Pháp Ấn là 3 ấn pháp quan trọng, có mối quan hệ tương quan chặt chẽ với nhau. Trong đó, vô thường bao gồm khổ và vô ngã, hai ấn pháp kia cũng có tính chất tương tự.
 
Ý nghĩa của Tam Pháp Ấn như sau:
 
- Đánh giá chánh pháp:
 
Mỗi pháp ấn đều có vai trò và chức năng trong việc nhận diện chánh pháp, được dùng để đánh giá chánh pháp, giáo lý của Phật Giáo.
 
- Giúp soi chiếu thực tại:
 
Cung cấp sự hiểu biết để soi chiếu thực tại, sự hiểu biết về Tam Pháp Ấn là nền tảng để soi chiếu thực tại, giúp chúng sinh thoát khỏi tham ái, tà kiến, mê mẩn, được bình an, thanh tịnh, giải thoát.
 
- Xác định tính đúng đắn của giáo lý nhà Phật:
 
Tam Pháp Ấn được coi là tiêu chuẩn, khuôn vàng thước ngọc để chứng minh cho tính đúng đắn và chính thống của giáo lý đạo Phật. Ba pháp ấn này giúp đảm bảo mọi ngôn thuyết, suy luận, diễn giải, thực hành của người Phật tử không vượt ra ngoài mục đích giải thoát mà Đức Phật đã giảng dạy.
 

4. Ứng dụng thực tiễn của 3 pháp ấn Phật Giáo

 
Ung dung thuc tien cua Tam Phap An
 
Ba pháp ấn Phật Giáo đóng vai trò vô cùng đặc biệt trong hệ thống giáo lý của Phật Giáo. Nó phản ánh chân thật, rõ ràng bản chất của con người và vạn vật.
 
Phật Giáo không nâng đỡ sự ngu si, không khiến người ta trốn chạy sợ hãi, dục vọng mà làm cho con người hiểu được cội nguồn, gốc rễ của ngu si, sợ hãi và đưa ra con đường, phương tiện để trừ khử và tiêu diệt chúng.
 
Con người vì muốn tự vệ nên đã lý tưởng về một linh hồn bất tử, chở che, bảo vệ họ. Thế nhưng, lý thuyết Phật giáo chỉ ra rằng, không có linh hồn bất tử vĩnh cữu, bản chất của mọi vật, mọi việc là vô thường vô ngã.
 
Để ứng dụng Tam Pháp Ấn vào đời sống, chúng ta cần sống có lý tưởng, sống vị tha vì hạnh phúc của mọi người, cố gắng hòa hợp, giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau chung sống trong một thế giới văn minh, hòa bình. Sự hiểu biết đúng đắn về Tam Pháp Ấn là cần thiết để con người có nhận thức đúng đắn về thực tại.
 
Trong ba ấn pháp này, vô ngã là đặc tính cuối cùng, cũng là dấu ấn đặc biệt, nổi bật nhất. Khi hiểu về vô ngã, chúng ta sẽ phát triển đức tính khiêm trung, điềm đạm, luôn biết sống yêu thương, tha thứ, tôn trọng, sống vị tha, không bảo thủ, không tham lam, ích kỷ.
 
Khi thấy được sự thật về thật tướng của sự vật, hiện tượng sẽ thoát khỏi tà kiến, mê tín, hoang tưởng và tư duy hữu ngã vốn tồn tại đã lâu.
 
Vạn sự đều vô thường, khi nhận ra điều này, chúng ta sẽ biết trân quý những phút giây hiện tại, sống hết mình với hiện tại, mạnh mẽ vượt qua sóng gió, có một tâm thế bình an, vững vàng. Để ứng dụng, thực tập vô thường, trước hết ta cần có một tâm thế vững chãi, kiên định. Tập nhìn sâu, thấu hiểu bản chất của vô thường, biến những hiểu biết này trở thành một phần của chúng ta.
 
Với tuệ giác vô ngã, chúng ta sẽ không còn mê muội, sợ hãi thần quyền, không chấp thủ mê muội về một đấng siêu nhiên, một linh hồn trường cửu. Có nhận thức được khổ đau, được vô thường, có hiểu rõ bản chất và nguyên nhân của khổ đau thì mới có thể sống yên vui, tự tại.

Tin cùng chuyên mục

X