(Lichngaytot.com) Bạn có biết phước đức đến từ đâu hay không? Cội nguồn và ý nghĩa, cách tăng phước đức theo lời Phật dạy ra sao sẽ có ngay sau đây.
1. Phước đức là gì?
Phước: Chỉ những sự tốt lành gọi là phước. Trong lời Phật dạy chia ra làm năm 5 loại phước: 1 là giàu có, 2 là sống yên lành, 3 là sống thọ, 4 là có đạo ó đức tốt, 5 là vui khỏe hết tuổi trời mới nhắm mắt buông xuôi lìa đời.
Đức: Đức có 4 nghĩa như sau, thứ nhất là đạo đức. Cái đạo để lập thân gọi là đức như đức hạnh, đức tính. Thứ 2 là thiện, làm nhiều việc thiện, cảm hóa cái thiện lương tới con người chính hay là đức hoá. Thứ 3 là ơn, vì thế nên nói lời cảm ơn cũng gọi là đức. Thứ 4 là cái khí tốt (vượng) trong bốn mùa, như mùa xuân thì gọi là thịnh đức tại Mộc.
Phước đức có nghĩa là hiền lành, tốt tính, sống biết giúp đỡ mọi người, biết ban ơn và sẽ hưởng được may mắn.
Phước đức còn có nghĩa là điều may mắn do đời trước ăn ở tốt, hiền lành, ban ơn, bố thí để lại cho đời sau.
Người ta thường nói là: "Làm phước và ăn ở cho có đức”. Có nghĩa là làm điều tốt lành như giúp người trong lúc nghèo khó, hoạn nạn từ vật chất đến tinh thần mà không đòi hỏi một điều kiện nào hết.
Ban ơn hay bố thí có nghĩa là cho đi không điều kiện, không mong cầu sự đền ơn, đáp nghĩa nào hết, đây chính là tạo đức và làm phước.
2. Nguồn gốc của phước đức
Phước đức đến từ đâu? Phước đức phải được khởi nguồn từ cái tâm thánh thiện và khởi hành từ con người nhân ái, muốn được vậy thì từ sự suy nghĩ đến hành động không cho bản thân mà cho tha nhân, sống cho mình và mọi người, luôn luôn giúp người là làm phước và tạo đức.
Phước đức có 2 loại là dương đức và âm đức
Âm đức là những việc làm thiện lành, tốt đẹp, ban ơn và bố thí cuả người ở đời trước thuộc về quá khứ nên được gọi là âm đức.
Âm đức còn một nghĩa thứ hai là chỗ an táng hay nói cách khác là mộ phần của người đời trước.
Một nơi an nghỉ nghìn thu của tiền nhân tại môt vùng đất tốt, cao ráo và khang trang (không nói đến long mạch ở đây) mà có được sự chăm sóc sạch sẽ và đẹp đẽ. Được con, cháu, chắt …thường lui tới thăm viếng là có được một âm đức tốt.
Một âm đức tốt là ngươì đời trước lúc còn sống làm phúc và tạo đức. Khi chết có được một nơi an nghĩ cao ráo, khang trang, đẹp đẻ, nơi mà con, cháu, chắt và chút thường xuyên thăm viếng.
Dương đức là những việc làm tốt đẹp, cao thượng,thánh thiện, ban ơn và bố thí cuả người còn đang sống.
Dương đức là chuỗi phước đức của đời trước, là kết quả của âm đức và cũng là nguồn gốc âm đức cho đời sau.
Làm phúc và tạo đức ở kiếp này là xây phúc và dựng phước cho đời sau. Hưởng phúc và đức bây giờ mà không chịu tạo phúc và làm đức là đang làm cạn kiệt phước đức, là tiêu vong sư hưng thịnh của đời sau.
Nhìn vào sự hưng thịnh hay sang hèn cuả một gia đình nói lên được âm đức của gia đình đó.
Sự giàu sang phú quý của đời này là nhờ vào sự tạo đức và làm phước ở đời trước.
Vì thế nên dương đức và âm đức là nhân quả của một con người, một gia đình hay gia tộc là một định luật ở đời không thể tránh khỏi.
3. Cách gia tăng phước đức
3.1 Kiêng sát sinh, chăm phóng sinh
Nếu bạn quy y hoặc tin tưởng theo đạo Phật phải có tâm từ bi. Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta phải học cách sống hòa bình với tất cả chúng sinh, xây dựng thói quen sống tốt, giữ cho môi trường sống sạch sẽ và ngăn nắp.
Ngoài ra nên hạn chế sát sinh, giết mổ, nếu có điều kiện thì nên phóng sinh bất kỳ loại động vật nào bằng lòng thành và cái tâm hướng thiện, đây chính là dấu hiệu ta đang tự tạo phước cho mình.
3.2 Tụng kinh, niệm Phật
Tụng kinh niệm Phật quan trọng nhất là ở lòng thành, nhất tâm không loạn. Đừng chỉ theo đuổi số lượng chỉ để hoàn thành nhiệm vụ.
Khi tụng niệm, chúng ta phải hết lòng thành kính. Phải có tâm tha thiết trân quý những lời Phật dạy. Nếu không làm như thế thì tâm ý của chúng ta nó dễ buông lung, rong ruổi theo duyên trần mà tha hồ tạo tội.
3.4 Không tà dâm
Những nguy hiểm và quả báo của tà dâm thật là kinh ngạc. Những lời dạy của các hiền nhân và hiền triết cổ đại hoàn toàn không phải là lời cảnh báo.
Tà dâm là chướng ngại, nghiệp chướng của chúng ta làm tiêu hao của cải, thân tâm hủy hoại, gia đình tan nát.
3.5 Cứu người khi họ gặp nạn
Khi người ta gặp nạn là lúc họ mong muốn được an ủi và giúp đỡ nhất. Người xưa có câu “cứu nguy chứ không cứu nghèo”.
Khi gặp một người khó khăn nghèo khổ, nếu cho họ sự quan tâm về vật chất liên tục, đôi khi lại phản tác dụng và hình thành thói quen lười biếng và tham lam.
Tốt hơn là nên giới thiệu Phật pháp cho họ và khiến họ tìm kiếm nhiều phước lành cho mình. Dẫn họ đi theo con đường chính đạo, lươn thiện là đã giúp họ rồi.
3.6 Trân trọng phúc khí
Quý trọng duyên phận, vạn vật sinh ra đều do số mệnh, chết đi cũng do số mệnh. Mọi thứ chúng ta làm đều tùy thuộc vào nghiệp để có thể thành công.
Trên đường tu hành chúng ta gặp chướng ngại khắp nơi, nếu truy nguyên nhân, e rằng chính là nghiệp chướng đã hình thành trong quá khứ mà mình tự tạo ra.
Mang lại niềm vui cho tất cả chúng sinh chính là tạo nghiệp tốt với tất cả chúng sinh. Nên nói năng thận trọng và không xét đoán người khác. Có cái nhìn đúng đắn và cư xử đúng mực.
Hãy trân trọng những phước lành và tránh xa 5 ham muốn. Khi tấm lòng thanh tịnh, không ô nhiễm thì trí tuệ và phước báu vốn có trong con người bạn sẽ tự nhiên xuất hiện.
3.7 Thuyết phục mọi người làm điều thiện
Để thuyết phục mọi người làm điều tốt, chúng ta - những đệ tử tự xưng của Đức Phật, không nên tiếc công sức dùng hết kỹ năng và phương tiện của mình để thực hiện công việc này.
Hãy để những ai có hương thơm Phật pháp không bị bối rối trước thế giới đảo lộn và hướng tới một cuộc sống thiện lương, không va phải những sai lầm đáng tiếc.
3.8 Bảo vệ và tiếp nối trí tuệ của Đức Phật
Để Đạo Phật trường tồn trên thế gian là trách nhiệm bắt buộc của mỗi Phật tử. Khi làm việc thiện đừng chần chừ, thời gian không chờ đợi một ai cả.
3.9 Khiêm tốn và nhân từ
Hãy khiêm tốn, đừng sống quá tự mãn, quá kiêu ngạo và coi thường mọi người xung quanh. Phật nói chỉ những người khiêm tốn, nhân từ mới xứng đáng được tôn trọng. Phước đức đến từ đâu? Đến từ những việc làm nhỏ nhặt và bình thường như thế này chứ ở đâu xa.
3.10 Hộ niệm giúp người khác
Hai chữ hộ niệm có nghĩa là giúp cho người sắp mất có được chánh niệm. Chữ niệm có nghĩa là chánh niệm.
Tức là mình giúp (hộ) cho họ nhớ (niệm) Phật, tức đồng với tâm niệm Phật, vì tâm niệm Phật là chánh nhân thành Phật.
Đời người, khi sắp mất, hay cuối nẻo đường trần có 3 lối rẽ để đi. Một là tiến thẳng lên Thánh đạo, vãng sinh Cực Lạc tức thời. Lối đi này chỉ dành cho những người cực thiện.
Hai là lối đi vào thiện đạo, lối này dù có được tốt đẹp ít khổ. Nhưng vẫn còn quanh quẩn luân chuyển vào nhân đạo hoặc thiên đạo.
Thứ ba là lối đi vào ác đạo, đây là con đường trầm luân thọ khổ muôn kiếp. Tuy không muốn, nhưng nghiệp ác hiện đời đã gây tạo, thì phải tránh như thế nào đây?
Cho nên đối với hai kiểu người sau này, thì việc hộ niệm trong giờ phút sắp lâm chung thật vô cùng quan trọng, bạn hộ niệm cho họ được thì phước đức cực lớn.
4. Câu chuyện về phước đức
4.1 Câu chuyện học giả nhà Thanh
Các học giả thời nhà Thanh đã thay đổi số phận của họ bằng cách làm những việc tốt và tích đức
Vào thời nhà Thanh, có một học giả ở Hồ Bắc là Lý Sinh, vừa giỏi viết văn, vừa thông thạo võ nghệ, khá nổi tiếng trong địa phương.
Sau khi hay tin về điều đó, quan địa phương Trương vô cùng ngưỡng mộ tài năng của anh ta và ghi tên anh ta đầu tiên trong bài kiểm tra văn học. Anh ta cũng đã thi võ thuật, và cũng đã đạt được vị trí đầu tiên.
Vào thời điểm đó, mọi người cho rằng Lý Sinh nên đi thi ở Bắc Kinh và tin rằng kỳ thi sẽ suôn sẻ.
Lý Sinh đến kinh đô dự thi, nhận giấy báo dự thi vào kiểm tra, hôm đó trời mưa rất to và anh ta đi giày đinh.
Anh ta cúi xuống sửa giày và làm rơi tờ giấy, bằng một cách sơ ý nào đó, tờ giấy đã bị giẫm nát thành những mảnh vụn.
Anh ta khóc và nói với giám thị, nhưng vì trong phòng thi chưa có quy định cho phép đổi giất thi, cán bộ coi thi không cho phép nên anh ta phải rút khỏi phòng thi.
Tham gia phần thi võ thuật, anh bị thương ở thắt lưng do ngã ngựa và không thể nhập viện để kiểm tra cũng không thể thi lại.
Sau khi Lý Sinh trở về quê hương, cuộc sống của anh rất nghèo, người thân và bạn bè của anh đã tìm thấy anh làm việc vặt ở làng bên cạnh.
Ai có thể biết được rằng vào một đêm nọ, lũ ập xuống, thôn xóm bị lũ cuốn trôi, người trong thôn vội vàng chạy trốn khắp nơi.
Hành lý và sách vở cũng bị cuốn trôi, một mình Lý Sinh trốn đi nơi khác rồi trở về ngôi nhà nghèo.
Lý Sinh liền trèo non lội suối đi vào Quảng Châu, cầu cứu Trương tri phủ, không may nhà Trương tri phủ có tang sự, đã về quê được mấy ngày.
Lý Sinh lại vội vàng lên đường, ở trên đường đuổi kịp Trương tri phủ.
Trương tri phủ gặp và thương xót anh ta và nói: "Sao anh lại ra nông nỗi này, ta không có gì ngoài chữ hiếu mang theo, không có gì để cho anh cả. Nhưng con trai trưởng của ta làm quan ở Hàng Châu đang thiếu nhân lực. Ta sẽ viết thư cho nó để bổ nhiệm ngươi vào làm, với tài năng và học thức của mình, ngươi có thể tạm yên ổn ở Hàng Châu.”
Lý Sinh vội vã đến Hàng Châu, vừa kịp gặp con trai của Trương tri phủ đang ốm nặng, gia đình tạm thời bố trí Lý Sinh ở phòng ngoài. Thế nhưng trong vài ngày sau, con trai của Trương tri phủ lại qua đời vì bệnh tật.
Lý Sinh không có người thân thích nên phải rời Hàng Châu.
Trên đường trở về quê hương, Lý Sinh nghĩ rằng mình đã trải qua nhiều ngã rẽ trong cuộc đời.
Lúc này, Lý Sinh gặp một đạo sĩ với bộ râu dài, anh ta không khỏi khóc lóc rồi kể với ông đạo sĩ về cuộc đời của mình.
Đạo sĩ nói: “Mọi thứ trên đời đều liên quan đến nhân quả và vòng tuần hoàn của nhân quả. Nếu muốn bớt khổ chỉ có thể thay đổi bản thân, từ nay về sau tu dưỡng đạo đức, làm việc thiện, đọc sách hay, làm người tốt, giúp đỡ người khác thì có thể giải trừ tai họa, thoát khỏi tai họa, được phúc báo.”
Lý Sinh nói: "Làm sao mà tôi có thể có tiền để làm việc thiện?"
Đạo sĩ trả lời: "Mấu chốt nằm ở tấm lòng. Có thiện niệm trong lòng và một lòng giúp đỡ người khác, không nhất thiết phải cần đến tiền bạc.”
Từ đó Lý Sinh làm theo lời của Đạo sĩ, chăm đọc kinh, tu thân, giảng bài cho dân làng bị mù chữ, dạy họ nên người. Sau đó Lý Sinh đã cống hiến cuộc đời của mình để làm việc thiện.
Làm điều thiện và tích đức là nền tảng sản sinh phước đức của con người, còn làm điều ác, tạo nghiệp là nguồn gốc của sự khổ sở.
4.2 Câu chuyện người anh keo kiệt
Có một người đàn ông đã tích lũy được rất nhiều tiền trong nhà, nhưng bản chất anh ta lại keo kiệt. Anh ấy có một người chị gái đã kết hôn, gia đình chị ấy rất nghèo.
Thời điểm đó, giao thừa đến gần, trong nhà thiếu thốn đồ ăn, bếp lạnh ngắt, con cái đói nheo nhóc. Bất chấp gió và tuyết, người chị đi bộ hàng chục dặm đến nhà cha mẹ, và muốn vay chút tiền của anh trai để trang trải cuộc sống qua ngày Tết.
Cô cũng hứa sẽ trả lại tiền cho người em trai vào mùa xuân tới. Tuy nhiên người em trai keo kiệt này nhất quyết từ chối vì sợ mất tiền và mất thể diện.
Người mẹ già của anh ta cũng đã van xin anh trong nước mắt, nhưng anh vẫn quyết tâm. Người mẹ bất lực nên đành tháo chiếc kẹp tóc và đôi bông ta giao cho con gái cầm đồ để sinh sống. Người đàn ông nhìn thấy điều này vẫn thờ ơ, coi như chưa thấy.
Thật bất ngờ, vào đêm nọ, một tên trộm đã đột nhập vào nhà và lấy trộm gần như toàn bộ số tiền mà anh ta đã tiết kiệm được.
Sau hơn nửa năm, tên trộm bị bắt vào tù, khi thẩm vấn, hắn khai nhận đã trộm một số tiền rất lớn của anh ta.
Phần lớn số tài sản bị đánh cắp được chính quyền thu hồi. Trước sức ép của dư luận, quan huyện vẫn chưa dám công bố số tiền họ nhận lại từ kẻ trộm. Vợ anh ta đau khổ vì tài sản nên sai con trai đến đòi bằng được, thật may là vụ việc đã được giải quyết.
Chỉ vì lòng tham tiền bạc mà anh chị em trong nhà hững hờ như người xa lạ. Nghe xong câu chuyện này thật là thót tim!
Tên trộm lợi dụng lúc gia đình lục đục để cướp tiền, anh ta mất tiền thì không dám báo với quan, có phát hiện cũng không dám đòi vì ngại, giá như anh ta chịu cho chị gái vay tiền thì mọi chuyện đã khác.
Mời bạn tham khảo thêm tin cùng chuyên mục: