(Lichngaytot.com) Tìm hiểu về khái niệm Chánh định là gì để chúng ta hạn chế việc sử dụng cụm từ này không chính xác, gây ra những hiểu nhầm đáng tiếc về Đạo Phật.
1. Chánh định là gì?
Chánh định là nhất tâm chân chánh trong đó "Chánh" là chân chánh, "Định" là nhất tâm. Định giúp chúng ta phá vỡ được vẻ bề ngoài giả tạo của các đối tượng này để có cái thấy rõ ràng về tính vô thường, khổ và vô ngã của chúng. Với chánh định, ta càng tinh tấn hành thiền, và chúng ta đạt được nhiều tiến bộ trên đạo lộ.
Chánh định bước quan trọng cuối cùng trên con đường đưa đến hạnh phúc (Bát Chánh Đạo) của Đức Phật, cần hội tụ ba đặc tính đặc biệt:
Chánh định bước quan trọng cuối cùng trên con đường đưa đến hạnh phúc (Bát Chánh Đạo) của Đức Phật, cần hội tụ ba đặc tính đặc biệt:
- Thiện: Tâm thiện giúp ta trụ vào những ý nghĩ, lời nói, và hành động thiện và tránh xa điều bất thiện.
- Nhất tâm: Nhất tâm trên những đối tượng có thể đè nén được 5 triền cái làm cho tâm trở nên thanh tịnh. Buông xả tất cả mọi ý nghĩ bám víu vào hoàn cảnh, tư tưởng, con người, và các thói quen.
- Có chánh niệm để phát triển trí tuệ.
Trung bộ kinh có ghi lại đoạn Đức Phật nói về Chánh định như sau:
Này các Tỷ-kheo, thế nào là Thánh chánh định với các cận duyên và các tư trợ? Chính là chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm. Này các Tỷ-kheo, phàm có nhất tâm nào (ekaggata) được tư trợ với bảy chi phần này, này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là Thánh chánh định cùng với các cận duyên và các tư trợ.
Trái ngược với Chánh định là Tà định:
- Tà định là trạng thái định phát sinh do chú tâm duy nhất là có tầm có tứ. Buộc vào đó để đạt được nhất tâm và tâm không phóng dật. Trạng thái định này xảy ra do chú tâm vào đối tượng được “tưởng ra”, hướng đến đối tượng, duy trì sự chú tâm và buộc tâm trên đối tượng tưởng ra. Một số các phương pháp thiền khác như thiền sổ tứ, thiền chú, thiền năng lượng đều là chú tâm có tầm có tứ.
- Chánh định được xem trạng thái định do chú tâm liên tục từ đối tượng này sang đối tượng khác mà không tập trung chú trọng vào bất cứ đối tượng nào. Không chú tâm vào đối tượng duy nhất để tâm không phóng dật bởi tâm và các đối tượng đều sinh diệt. Đây là sự chú tâm liên tiếp từ đối tượng sinh diệt này chuyển đến đối tượng sinh diệt khác.
Chánh định có 4 mức độ gồm: Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền và Tứ thiền:
1.1 Sơ thiền
- Có cả 2 loại chú tâm: Chú tâm có tầm có tứ và chú tâm không tầm không tứ.
- Có cảm giác vui nhè nhẹ thỉnh thoảng khởi lên nơi nội tâm (Hay còn gọi là “Hỷ”)
- Có cảm giác thoải mái, không căng thẳng, gò bó, mệt mỏi trên thân (Hay còn gọi là “Lạc”)
1.2 Nhị thiền
- Chỉ có một loại chú tâm duy nhất là không tầm không tứ.
- Có Hỷ rất mạnh. Có thể muốn cười lên, có thể nổi da gà, có thể có những luồng rân rân chạy dọc đùi, sống lưng, hay xoáy trên đầu, cảm giác nhẹ bổng như bay lên…
- Có Lạc rất mạnh, không còn bất kỳ một cảm giác khó chịu nào trên thân, không còn đau nhức, không còn cảm giác đau khi hai chân đè lên nhau như trước nữa. Có thể ngồi thoải mái như vậy rất lâu, tuỳ theo ý muốn.
1.3 Tam thiền
- Chỉ có một loại chú tâm duy nhất là không tầm không tứ.
- Trạng thái Hỷ chấm dứt, tâm bình thản, không vui, không buồn (Hay còn gọi là “Ly hỷ trú xả”)
- Cảm giác Thoải mái, dễ chịu trên thân vẫn có mặt như trạng thái Nhị thiền.
1.4 Tứ thiền
- Chỉ có một loại chú tâm duy nhất là không tầm không tứ.
- Các cảm giác nơi thân nhẹ dần và vi tế, không phải là cảm giác dễ chịu hay khó chịu, nó là các cảm giác Trung tính (Xả lạc, Xả khổ)
- Nội tâm vắng lặng cả vui cả buồn (Hay còn gọi là “diệt trừ Hỷ Ưu”).
- Trạng thái tâm vắng lặng cả Hỷ cả Lạc, vắng lặng mọi tư tưởng (Hay còn gọi là “Tâm thanh tịnh nhờ xả”.)
Theo Phật học tinh yếu nói về Chánh định như sau:
Samādhi, định, là trạng thái tâm an chỉ, vắng lặng. Trong đời sống của chúng ta, hãy chiêm nghiệm:
- Nếu chỉ cần chú tâm một giây khắc là ta đã có định, được gọi là sát-na định.
- Nếu chú tâm khá lâu vào một đối tượng nào đó, ví dụ như khi đang chăm chú đọc sách; vì chăm chú quá nên không hay biết cái gì đang xảy ra ở xung quanh thì đấy là định, được gọi là phiến thời định.
- Nếu lựa chọn đề mục, ví dụ như niệm Phật thì ta có thể đi vào gần gần định, được gọi là cận hành định.
Cả ba loại định trên thuộc tâm dục giới.
Nếu lựa chọn các đề mục sắc pháp ví dụ như 10 đối tượng kasiṇa (đất, nước, lửa, gió, xanh, đỏ, trắng, vàng, hư không, ánh sáng) thì ta sẽ đi sâu vào định, được gọi là định sơ thiền hay an chỉ định, đã từ bỏ dục giới, thuộc tâm thiền sắc giới.
Nếu lựa chọn các đề mục sắc pháp ví dụ như 10 đối tượng kasiṇa (đất, nước, lửa, gió, xanh, đỏ, trắng, vàng, hư không, ánh sáng) thì ta sẽ đi sâu vào định, được gọi là định sơ thiền hay an chỉ định, đã từ bỏ dục giới, thuộc tâm thiền sắc giới.
Có hai loai định: Định trong định và định có tuệ:
Định trong định
Tức là định trong các tầng thiền Sắc giới và Vô Sắc giới:
Khi hành giả lựa chọn một trong 10 đề mục kasiṇa, lúc 5 thiền chi xuất hiện đối trị 5 triền cái thì tâm đã tĩnh chỉ, an bình để đi vào định sơ thiền:
- Sơ thiền: Tầm, tứ, phỉ, lạc, nhất tâm
- Nhị thiền: Phỉ, lạc, nhất tâm.
- Tam thiền: Lạc, nhất tâm.
- Tứ thiền: Xả, nhất tâm.
- Không vô biên thiền: Xả, nhất tâm
- Thức vô biên thiền: Xả, nhất tâm
- Vô sở hữu thiền: Xả, nhất tâm.
- Phi tưởng, phi phi tưởng thiền: Xả, nhất tâm.
Đây là định ngàn xưa của bà-la-môn giáo. Khi Bồ-tát Siddhattha trong giai đoạn tầm cầu tu học, ngài đã học được, đã thân chứng được hai tầng thiền cao nhất là “Vô sở hữu thiền” và “Phi tưởng phi phi tưởng thiền”, nơi hai vị đạo sư Ālāra Kālāma và Uddaka Rāmaputta – nhưng ngài nhận thấy những định này chưa đi đến chỗ giải thoát nên ngài từ bỏ. Sau đó, trọn 6 năm khổ hạnh, Bồ-tát cũng thấy là sai lầm.
Cuối cùng, ngài chọn con đường trung đạo, ăn mỗi ngày một bữa. Tại cội bồ-đề, ngài đã tự tìm con đường cho riêng mình, sau đó đắc quả Chánh Đẳng Giác.
“Con đường cho riêng mình”, do ngài nhớ lại thuở 5 tuổi khi theo phụ vương đi dự lễ hạ điền, tại cội cây hồng táo, với “tâm thức trẻ thơ, hồn nhiên”, ngài đã dễ dàng đi vào định sơ thiền. Nên tại cội bồ-đề, ngài chỉ thư thái, nhẹ nhàng theo dõi hơi thở, một hồi là ngài đã đi vào định sơ thiền, nhẹ nhàng đi vào nhị thiền, tam thiền, tứ thiền...
Sau này, khi ngài diễn đạt lại nội dung sơ thiền ấy, ngài nói: “Ly dục, ly bất thiện pháp, chứng trú thiền thứ nhất, trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ!” Như thế, định của ngài là định do ly dục, ly ác pháp nên khác định của bà-la-môn giáo thời bấy giờ.
Hơn thế nữa, ngài lại không chấp trước định ấy, ngài dùng định ấy để cho cả khối thân tâm trở nên thuần nhất, tâm và trí hoàn toàn tĩnh lặng và thanh khiết - trở lại cận hành định, ngài dùng giác niệm lung linh soi chiếu, minh sát, không thấy trong, không thấy ngoài, không thấy ngã, không thấy ngã sở.
Khi quán chiếu tự thân đã trở nên rỗng suốt, sáng trong... thì không có một dấy khởi, một duyên khởi nào mà không hiện ra trước tuệ giác tinh minh của ngài... Như vậy, Bồ-tát đã nương tựa nơi các định (không phải sở đắc) để làm lắng dịu ác pháp, tham dục, tâm trở nên thuần khiết sau đó mới bước sang minh sát, tuệ quán ngũ uẩn, thập nhị nhân duyên...
Cuối cùng, ngài chọn con đường trung đạo, ăn mỗi ngày một bữa. Tại cội bồ-đề, ngài đã tự tìm con đường cho riêng mình, sau đó đắc quả Chánh Đẳng Giác.
“Con đường cho riêng mình”, do ngài nhớ lại thuở 5 tuổi khi theo phụ vương đi dự lễ hạ điền, tại cội cây hồng táo, với “tâm thức trẻ thơ, hồn nhiên”, ngài đã dễ dàng đi vào định sơ thiền. Nên tại cội bồ-đề, ngài chỉ thư thái, nhẹ nhàng theo dõi hơi thở, một hồi là ngài đã đi vào định sơ thiền, nhẹ nhàng đi vào nhị thiền, tam thiền, tứ thiền...
Sau này, khi ngài diễn đạt lại nội dung sơ thiền ấy, ngài nói: “Ly dục, ly bất thiện pháp, chứng trú thiền thứ nhất, trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ!” Như thế, định của ngài là định do ly dục, ly ác pháp nên khác định của bà-la-môn giáo thời bấy giờ.
Hơn thế nữa, ngài lại không chấp trước định ấy, ngài dùng định ấy để cho cả khối thân tâm trở nên thuần nhất, tâm và trí hoàn toàn tĩnh lặng và thanh khiết - trở lại cận hành định, ngài dùng giác niệm lung linh soi chiếu, minh sát, không thấy trong, không thấy ngoài, không thấy ngã, không thấy ngã sở.
Khi quán chiếu tự thân đã trở nên rỗng suốt, sáng trong... thì không có một dấy khởi, một duyên khởi nào mà không hiện ra trước tuệ giác tinh minh của ngài... Như vậy, Bồ-tát đã nương tựa nơi các định (không phải sở đắc) để làm lắng dịu ác pháp, tham dục, tâm trở nên thuần khiết sau đó mới bước sang minh sát, tuệ quán ngũ uẩn, thập nhị nhân duyên...
Vậy tạm thời ta hiểu rằng, các định không sở đắc, rời các dục và các ác pháp chính là chánh định vậy, và là định trong định.
Định có tuệ
Định này từ “niệm” mà có. Nếu “niệm” là thả thân tâm xuống, cứ để cho nó yên là đã có định nầy. Đôi khi chỉ cần lắng nghe, theo dõi 5, 7 hơi thở là đã có định nầy. Chúng có thể là sát-na định, vài ba phút định hay phiến thời định. Đây là định trong sinh hoạt thường nhật khi nấu ăn, khi giặt giũ, khi lái xe, khi làm vườn, khi dạy dỗ con cái, lúc đợi xe tàu, lúc xếp hàng mua vé, những khi lắng nghe cảm xúc, cả những khi đối diện với những sân nộ bất thường. Là cả thiên hình vạn trạng trong đời sống, nó cần định nầy để tạo sự ổn định tâm, giúp ta bình tĩnh, tự chủ, an định trong mọi lúc, trong mọi khi.
Tuy nhiên, chúng ta lưu ý là có 4 trường hợp có định hoặc không có định để qua tuệ minh sát:
- Khi hành giả tu tập đắc định rồi, nhưng không sở đắc định ấy, mà trở lại “cận hành” để quay sang tu tuệ quán, thấy rõ thực tướng để giải thoát vô minh, ái dục.
- Chưa đắc định, chỉ ngang “cận hành” rồi qua minh sát.
- Không tu thiền định, chỉ đi thẳng vào minh sát tuệ. Trường hợp này được gọi là càn tuệ hay khô tuệ (sukkha-pañña), nghĩa là tuệ không có định. Tuy nhiên đấy chỉ là dụng ngữ để phân biệt các loại tuệ chứ thật ra không thể có tuệ mà không có định. Ví dụ như khi ta cầm một tấm gương. Nếu tấm gương lung lay (không có định) thì hình ảnh phản chiếu không rõ ràng (không có tuệ). Nếu tay ta cầm vững chắc, tấm kiếng không lung lay (có định) – thì hình ảnh phản chiếu sẽ rõ ràng (có tuệ). Ví dụ khác: Khi ta quan sát một vật, muốn thấy rõ ràng (tuệ) vật ấy thì ta phải có chú tâm (định); và ngược lại.
- Tu định đạt tứ thiền thì có thể đi ba hướng: Một, nếu muốn thì dễ dàng đắc 4 tầng thiền vô sắc. Hai, dễ dàng hướng đến các thắng trí thần thông. Ba, dễ dàng qua minh sát tuệ để giác ngộ, giải thoát.
Nói tóm lại, Đạo Đế có 8 chi phần, nhưng chúng liên kết với nhau. Chúng liên kết với nhau thường là theo tuyến tính; ví dụ, chánh kiến, chánh tư duy rồi chánh ngữ...
Mà cũng có thể chúng liên kết với nhau theo vòng tròn, chẳng biết chi nào trước, chi nào sau; mà lạ lùng, chi nào trước, chi nào sau cũng được cả. Ví dụ, có người hỏi: Làm sao ta có thể có chánh kiến mà trước đó không có chánh niệm, chánh định? Ta làm sao có chánh niệm, chánh định - nếu ngữ, nghiệp, mạng không thanh tịnh? Làm sao ngữ, nghiệp, mạng thanh tịnh nếu không có chánh kiến và chánh tư duy dẫn dắt?
Tuy nhiên, nếu nói vòng tròn là đúng - thì tại sao giới, định, tuệ lại sắp đặt theo tuyến tính: Giới năng sinh định, định năng sinh tuệ? (Do giới đại biểu cho ngữ, nghiệp, mạng; định đại biểu cho niệm, định); tuệ đại biểu cho kiến và tư duy). Thật ra, tuyến tính hay vòng tròn đều đúng cả.
Tuyến tính giới, định, tuệ, dành cho người sơ cơ, phải cần giới trước để ngăn ác, tòng thiện, nhờ vậy tâm mới định, mới yên lặng; tâm có định, yên lặng tham sân, phiền não, tuệ mới phát sanh được.
Tuyến tính chánh kiến, chánh tư duy... là Đạo Đế. Hành giả tu tập Đạo Đế chỉ có hiệu quả khi đã thấy khổ (Khổ Đế) và nguyên nhân khổ (Tập Đế). Do đã có trí tuệ nên chỉ cần chánh kiến dẫn dắt là 7 chi phần còn lại phải đi theo.
Vòng tròn cũng không sai, là vì để dành cho hành giả đã tu tập minh sát (vipassanā) lâu năm, đã thuần thục; đối với họ, Bát Chánh Đạo nằm nơi sát-na tâm! Chỉ cần một điểm, một đối tượng từ lục trần giao tiếp với lục căn, tức khắc họ có ngay niệm và tỉnh giác, nghĩa là đầy đủ Bát Chánh Đạo.
Và khi ấy, chẳng biết chi nào trước, chi nào sau! Nói trước, sau chỉ là tùy duyên phương tiện thôi. Một hạt bui rơi vào mắt kẻ phàm phu, cả thảy thân tâm (thân, thọ, tâm, pháp) đều báo động bất an, xáo trộn vì ngay sát-na ấy, họ
Và khi ấy, chẳng biết chi nào trước, chi nào sau! Nói trước, sau chỉ là tùy duyên phương tiện thôi. Một hạt bui rơi vào mắt kẻ phàm phu, cả thảy thân tâm (thân, thọ, tâm, pháp) đều báo động bất an, xáo trộn vì ngay sát-na ấy, họ
không có Bát Chánh Đạo!
Một hạt bụi rơi vào mắt bậc trí tuệ, cả thảy thân tâm (thân, thọ, tâm, pháp) đều lặng lẽ, thanh thản, bình yên vì ngay sát-na ấy, vị ấy có Bát Chánh Đạo!
2. Lợi ích của Chánh định
2.1 Có được hạnh phúc nội tâm
Khi có tâm trạng vui vẻ, an hòa từ trong tâm nhờ việc có Chánh định thì ta cũng không phải đi tìm kiếm niềm vui, hạnh phúc từ thế giới bên ngoài. Sẽ giảm thiểu việc tâm lăng xăng đi niềm vui trong chất kích thích, điện thoại, ma tuý, mại dâm, rượu chè, cờ bạc...
Việc tu tập chánh định sẽ đem đến cho chúng ta hiện tại lạc thú, có niềm vui của sơ thiền, nhị thiền, có lạc của tam thiền hay xả niệm thanh tịnh của tứ thiền. Khi có được hỷ lạc tại tâm này sẽ giúp chúng ta không còn chạy theo hay bị dục lạc trói buộc, niềm vui nội tâm này hoàn toàn vô hại.
Người đời chỉ cảm thấy hạnh phúc nhờ sự giàu có, thành đạt, nổi tiếng, ăn ngon, mặc đẹp… mang lại nếu không có được nó thì lại cảm thấy đau khổ.
Chánh định giúp chúng ta không còn tập trung vào vẻ ngoài giả tạo của các đối tượng này để có cái thấy rõ ràng về tính vô thường, khổ và vô ngã của chúng. ta hiểu rằng những niềm vui của cuộc đời chỉ ngắn nui sau đó là khổ đau. Chỉ khi ta sống với Chánh định ta sẽ được sống với cảm giác hạnh phúc mà không phụ thuộc vào hoàn cảnh sống.
Một người tại gia buổi sáng thức dậy sớm, tọa thiền trong bốn đến năm mươi phút, an trú hiện tại lạc trú của thiền, sau đó bắt đầu đi làm các công việc thì dư âm của hiện tại lạc trú vẫn còn tồn tại. Khi người đó bắt đầu một ngày mới bằng niềm vui nội tâm này, người đó sẽ trở nên độ lượng, đối xử tử tế với mọi người và hoàn tất công việc trong ngày với chất lượng rất cao.
2.2 An nhiên đối mặt với cuộc đời
Khi không còn tìm kiếm niềm vui ở những thứ vật chất hay dục lạc, chúng ta sẽ không còn phải tranh giành, hơn thua với đời, luôn giữ được tâm bình an dù dòng đời có thể nào đi chăng nữa.
Có được Chánh định tức là chúng ta cũng đã có được Chánh kiến từ trước đó để hiểu rằng lạc của dục lạc thế gian là phàm phu lạc, ô uế lạc, bất tịnh lạc; còn lạc do các bậc thiền mang lại là thánh lạc, chánh giác lạc, an tịnh lạc.
Ngoài ra, với kỹ năng chú tâm liên tục sẽ đưa đến khả năng sống thích nghi với mọi hoàn cảnh, mọi hạng người, mọi thức ăn, mọi công việc... Ta chỉ tập trung với những gì đang diễn ra chứ không nhận xét, đánh giá. Thế nên cho dù mọi thăng trầm cuộc sống như thế nào chúng ta vẫn có tâm trạng tích cực, vui vẻ, thoải mái...
Một khi đã thích nghi với mọi thứ đang xảy ra trong cuộc sống, ta luôn an nhiên, chẳng vì một chuyện không như ý mà xử lý cộc cằn với bạn bè, người thân, anh em, bạn bè,...
Khi an trú niềm vui nội tâm này khiến chúng ta quên đi dục lạc, khổ não trong cuộc đời. Dục lạc thế gian là phàm phu lạc, ô uế lạc, bất tịnh lạc còn lạc trong chánh định chính là thánh lạc, chánh giác lạc, an tịnh lạc.
2.3 Giảm nhẹ ý nghiệp
Chúng ta thường hay quan tâm tới thân nghiệp và khẩu nghiệp nhưng có một nghiệp quan trọng không kém đó là ý nghiệp. Mỗi suy nghĩ khởi lên cũng đã gây ra một nghiệp mới, trong khi đó, mỗi ngày chúng ta suy nghĩ không ngơi nghỉ bao gồm cả ý nghĩ tốt lẫn xấu và chúng đều tạo ra nghiệp mới chồng chất lên nhau.
Tuy nhiên, khi có Chánh định và thực hành nó thường xuyên, chúng ta cũng có thể sẽ chấm dứt được 80% suy nghĩ, gồm những suy nghĩ linh tinh, vô bổ vô ích, những suy nghĩ đưa đến căng thẳng, lo lắng, sợ hãi, oán hận ghen tuông, phiền não... Nhờ thế mà giảm nhẹ ý nghiệp của chính mình.
Tuy nhiên, khi có Chánh định và thực hành nó thường xuyên, chúng ta cũng có thể sẽ chấm dứt được 80% suy nghĩ, gồm những suy nghĩ linh tinh, vô bổ vô ích, những suy nghĩ đưa đến căng thẳng, lo lắng, sợ hãi, oán hận ghen tuông, phiền não... Nhờ thế mà giảm nhẹ ý nghiệp của chính mình.
Chỉ cần có thế thôi mà kết quả là sẽ làm cuộc sống người học thay đổi một cách kỳ diệu, vô cùng tốt đẹp hơn trước rất nhiều.
2.4 Cải thiện sức khỏe
Thực tế hiện nay có quá nhiều vấn đề liên quan tới sức khỏe gây ra do tình trạng căng thẳng, stress thường xuyên. Tuy nhiên, nhờ có Chánh định với các tầng thiền chúng ta được giải tỏa căng thẳng một cách dễ dàng mà không cần tới thuốc.
Từ đó, mỗi chúng ta hoàn toàn chấm dứt được lối sống uể oải, lười biếng, ngủ nướng, trầm cảm...
Nhờ đó mà não bộ được nghỉ ngơi, tiêu thụ năng lượng giảm đi rất nhiều. Sức khỏe tinh thần sẽ thay đổi rõ rệt khi chúng ta cải thiện chất lượng giấc ngủ, ngủ ngon và sâu giấc, ít mộng mị.
Từ đó, mỗi chúng ta hoàn toàn chấm dứt được lối sống uể oải, lười biếng, ngủ nướng, trầm cảm...
Nhờ đó mà não bộ được nghỉ ngơi, tiêu thụ năng lượng giảm đi rất nhiều. Sức khỏe tinh thần sẽ thay đổi rõ rệt khi chúng ta cải thiện chất lượng giấc ngủ, ngủ ngon và sâu giấc, ít mộng mị.
Không những thế, ta còn có thể cải thiện sức khoẻ thể chất, cơ thể khoẻ mạnh hơn do các cơ quan trong cơ thể hoạt động ổn định, nhịp nhàng.
Ngoài ra, khi chúng ta học tập, làm việc với tâm trạng tích cực, vui vẻ thì kết quả sẽ tốt hơn gấp nhiều lần, không còn bị áp lực, căng thẳng, không còn cảm thấy khó khăn mà luôn có thể thích nghi với mọi việc một cách nhanh chóng, dễ dàng. Thậm chí khi bắt tay vào các công việc nhà như lau nhà, rửa bát, nấu ăn, dọn dẹp... chúng ta vẫn cảm thấy thoải mái, không còn lười nhác hay trốn tránh nữa vì đó cũng là một quá trình chú tâm thú vị.
3. Làm thế nào để có Chánh định?
Loại thiền định mà chúng ta đã nhắc đến từ trước cho đến giờ, có thể gọi “thiện định bình thường.” Loại thiền định này thì tương đối dễ đạt được. Để đạt Chánh Định cần thực hành "chú tâm liên tục không tập trung" vào một đối tượng nào, mà cụ thể là chú tâm liên tục Cảm giác toàn thân đan xen với chú tâm các đối tượng khác (bên ngoài).
Thực hành chú tâm ghi nhận liên tục cảm giác toàn thân trong các tư thế đi, đứng, ngồi, nằm chỉ cần nhớ đến ngậm chặt răng lưỡi và nhớ đến thở ra từ từ nhè nhẹ.
Để có được Chánh định chúng ta phải trải qua Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền và Tứ thiền. Nhìn chung, không dễ dàng có được Chánh định và ta phải tu tập từng bước mới có được. Tâm phải được rèn luyện. Có thể phải mất từ vài thời tọa thiền đến vài năm tinh tấn nỗ lực để phát triển loại định có tính thiện, nhất tâm, và chánh niệm này.
Để có được Chánh định chúng ta phải trải qua Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền và Tứ thiền. Nhìn chung, không dễ dàng có được Chánh định và ta phải tu tập từng bước mới có được. Tâm phải được rèn luyện. Có thể phải mất từ vài thời tọa thiền đến vài năm tinh tấn nỗ lực để phát triển loại định có tính thiện, nhất tâm, và chánh niệm này.
Một khi đã đạt được thiền định này, thiền giả phải tiếp tục tu tập các bước cho đến khi thiền giả có thể đạt được định dễ dàng, theo ý muốn.
Trong Bát Chánh Đạo, khi có chánh kiến thì có chánh tư duy, khi có chánh tư duy thì có chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng nhờ đó tâm tự động ổn định tức là khi đó ta đã có chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Thế nên Bát chánh đạo là một chuỗi liên hoàn không tách rời ra để tu từng phần.
Sở dĩ đức Phật dạy tinh tấn, chánh niệm, tỉnh giác (chánh kiến) trong Kinh Tứ Niệm Xứ, vì đó là 3 yếu tố dẫn đầu trong Bát Chánh Đạo. Khi hành giả sử dụng 3 yếu tố dẫn đạo này thì những yếu tố khác tự động trở thành chánh, tức là tự động có chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng và chánh định một cách hoàn toàn tự nhiên. Nếu hiểu đúng nguyên lý đức Phật dạy thì việc tu tập trở nên rất dễ dàng, dường như tự động, nên mới gọi là “không, vô tướng, vô tác, vô cầu”.
Một khi bạn đã biết cách để đạt được sơ thiền, hãy quyết tâm để đạt được thiền chứng này lần nữa, quyết định xem bạn sẽ ở trong tầng thiền này trong bao lâu, và khi nào bạn muốn xuất định.
- Thực hành đạt được sơ thiền nhiều lần cho đến khi bạn hoàn toàn làm chủ nó.
- Nhị thiền (tầng thiền định thứ hai) phát khởi khi bạn đã đạt được sơ thiền quá nhiều lần đến nỗi bạn không còn quan tâm đến tầm và tứ nữa, khiến cho các chi thiền này biến mất.
- Tam thiền (tầng thiền định thứ ba) xuất hiện khi sự lặp lại thường xuyên của nhị thiền khiến tâm không còn quan tâm đến hỷ. Khi hỷ qua đi, lạc trở nên vi tế, lắng đọng và xả niệm trở nên rõ ràng hơn.
- Tứ thiền (tầng thiền thứ tư) phát khởi khi bạn không còn quan tâm đến lạc và tâm niệm của bạn trở nên thanh tịnh bằng sự buông xả sâu lắng.
Trong trạng thái định, tâm đầy ấp các tính chất thiện, mạnh mẽ, quyết liệt, không trơ ra như đá hay giống như ai đó đang ngủ. Đừng cố gắng để cố tạo ra định. Mỗi khi ta hành thiền, là ta tiến gần đến định hơn. Phải mất bao lâu tùy theo ta có hành thiền thường xuyên không và ta thực hành các ngành khác của Bát Chánh Đạo như thế nào.
Xem thêm tin liên quan cùng chuyên mục:
Xem thêm tin liên quan cùng chuyên mục: