Trạng thái tu tập cao nhất của Phật giáo chỉ là 8 CHỮ này, hãy xem bạn có làm được không!

Thứ Hai, 07/08/2023 08:38 (GMT+07)
(Lichngaytot.com) Ngày nay, ngày càng nhiều người tìm đến với con đường học Phật để học về những quy luật tự nhiên, những lẽ thật, những chân lý... thông qua những giáo lý mà Đức Phật đã để lại. Tuy nhiên không phải ai cũng hiểu được điều cốt lõi của con đường học Phật. Thực tế trạng thái tu tập cao nhất của Phật giáo chỉ nằm ở 8 chữ đơn giản, nhưng rất ít người hiểu được.
 
Lời Phật dạy là vô cùng vô tận, trong khi sự hiểu của chúng ta tuy nhiều nhưng ứng dụng thì còn giới hạn. Học Phật để làm người tốt hơn, đó là vấn đề cốt lõi.
 
Người học Phật có nhiều mục đích khác nhau: Học Phật để thành Phật, học Phật để giải thoát sinh tử, học Phật để về Tây Phương, học Phật để thoát khổ, học Phật chuyển hóa thân tâm,…Nhưng dù thế nào đi nữa, học Phật để làm người tốt, có ích cho gia đình và xã hội chính là điều cơ bản nhất.
 
Điều kỳ diệu của đạo Phật chính là lời Đức Phật dạy không phải là công thức cứng ngắt mà nó huyền biến trong từng đối tượng, căn cơ của mỗi người và tùy hoàn cảnh. Nghĩa là người đau khổ muốn hạnh phúc thì ứng dụng lời Phật dạy ở góc độ nào? Người muốn thành Phật ứng dụng lời dạy theo phương pháp nào?
 
Đạo Phật luôn mang đến hạnh phúc cho đời sống thực tại bằng chính sự thực hành thông qua từng lời dạy. Và nếu tu tập không đúng phương pháp hoặc được hướng dẫn sai cách sẽ khiến bản thân dễ dàng rơi vào sự đau khổ của cuộc đời.
 
Đức Phật giác ngộ thành Phật và đã truyền dạy lại từng bước con đường để giác ngộ đó cho mọi người.
 
Đức Phật nói: “Vốn không có gì đâu, đâu là bụi trần?” Lòng người vốn thanh tịnh tự tại. Tuy nhiên, con người bước đi trên cõi đời, áp lực công việc, gia đình khiến con người ta suốt ngày thấy bồn chồn, bận rộn.
 
Trong một xã hội xô bồ đầy ham muốn vật chất như vậy, con người thường hay suy nghĩ quá nhiều, khiến cho hạnh phúc và niềm vui dường như quá xa vời.
 
Tại sao nhiều người tìm hiểu đạo Phật, họ chỉ muốn thoát khỏi cái tâm thất thường đã đeo bám nửa đời người để trở về với sự tự tại của “tánh không”.
 
Học cách buông bỏ nói thì dễ, nhưng mấy ai có thể bình tĩnh buông bỏ khi đến lúc phải làm.
 
Học cách buông bỏ không chỉ là năng lực, mà còn là cảnh giới.
 
Buông bỏ nói thì dễ, chỉ cần một cái vung tay là buông được, ai cũng có thể làm, nhưng ít người làm được, đa số đều không muốn buông bỏ, cũng không dám buông bỏ. Vì vậy, không buông bỏ được không phải là thiếu năng lực, mà là thiếu cảnh giới.
 
Nhiều người học Phật và hành đạo rất mơ hồ về lĩnh vực tu học của đạo Phật, họ chỉ biết cùng người tu Phật, tụng kinh, chép kinh.
 
Học Phật một cách mù quáng khó đạt được kết quả khả quan, chỉ khi tìm được phương hướng đúng đắn thì mới có thể tiến tới và đạt được điều gì đó. Thực tế trạng thái tu tập cao nhất của Phật giáo chỉ là 8 chữ này, hãy xem bạn có làm được không?

 

1. Ngoài không CHẤP TƯỚNG

 
Ngoài không chấp tướng, tức là bên ngoài không bị danh văn, lợi dưỡng, ngũ dục lục trần cám dỗ.
 
Nói cho đơn giản, dễ hiểu một chút thì người tu hành tuyệt đối không thể bị ngoại cảnh cám dỗ, mê hoặc, đó là “không chấp tướng”. Không phải là rời bỏ cảnh giới bên ngoài, rời khỏi rồi, còn gì mà độ chúng sanh? Tuy tiếp xúc nhưng quyết không chấp tướng, quyết không bị ảnh hưởng, đó là “Thiền”.
 
Thích Ca Mâu Ni Phật dạy Tôn giả Tu Bồ Đề: “Bất thủ ư tướng, như như bất động”. Thiền tông do Lục Tổ truyền lại, “Thiền định” là từ hai câu này mà ra.
 
“Không chấp trước tướng là thiền, không động tâm là định”. Thiền định thật sự là khi lục căn tiếp xúc với cảnh giới lục trần mà không khởi tâm, không chấp tướng, chứ không phải là ngồi xếp bằng hàng ngày. Nếu thân tuy ngồi xếp bằng, tâm thì vọng tưởng, đó là thiền định gì? Chấp trước tướng thì không có thiền, ý niệm động thì không có định.
 
Trong "Kinh Kim Cương" có viết rằng "hết thảy những gì có hình tướng đều là hư giả”, tất cả các hiện tượng đều nên được coi là ảo ảnh, miễn là không dính mắc vào chúng, chỉ có như vậy chúng ta mới có thể có một nhận thức đúng đắn về sự vật.
 
Tất cả các bản chất đều trống rỗng, và chính vì sự kết hợp của nghiệp lực mà có các "giai đoạn" khác nhau, và bất kỳ sự thay đổi nào của nghiệp lực cũng sẽ thay đổi "giai đoạn" hiện tại và trở thành một "giai đoạn" khác.
 
Tính tương đối của “tính không” trong Phật giáo là “tuyệt đối”, và tính không trong tự tính của tự tánh cũng thể hiện rằng vạn vật trên đời luôn biến đổi không ngừng, vô thường bao trùm vạn vật.
 
Không có gì tồn tại mãi mãi, mọi thứ đều ở trạng thái “dĩ bất biến”.
 
Phật giáo nói rằng người mê vật chất là mê sắc tướng của mình, đồ vật thỏa mãn dục vọng của mình, tự chuốc lấy áp lực cho mình, gây ra đủ thứ phiền não, đau khổ, khó chịu do không đạt được.
 
Dẫu vậy, vạn vật đều vô thường, vạn vật đều có thuộc tính biến đổi, cái gì thuộc về mình rồi sẽ mất đi, mất đi. Được và mất đến rồi đi, và những rắc rối và đau khổ của cuộc sống luôn đi kèm với trí tuệ.
 
Trạng thái cao nhất của việc học Phật là không dính mắc vào hình tướng, không dính mắc vào tất cả những thứ bề ngoài.
 
Không vui với vật, không buồn với mình, không ỷ lại vào số phận, không dính mắc với mọi việc thế gian, tâm phóng khoáng và lãnh đạm, trong sáng và thoải mái.
 
Trên đời sống vật chất được tự tại, chúng ta có dư thì hãy giúp người khác. Lúc đó phước đức của bạn liền thêm lớn, công đức cũng lớn.
 
Tu phước mà không chấp tướng thì phước đức biến thành công đức; còn tu phước chấp tướng chỉ mang lại phước đức, không phải công đức.
 
Chấp tướng là chấp ngã tướng. “Ta đã tu, ta đã làm rất nhiều việc tốt”, đó là phước đức, không phải công đức. Vô ngã tướng thì tất cả phước đức bạn tu đều biến thành công đức.

 

2. Trong không ĐỘNG TÂM

 
Trong không động tâm tức là bên trong phải tiêu trừ phiền não của tham, sân, si, mạn.
 
Bên trong không động tâm, vậy không động tâm nào? Là không động bởi tham, sân, si, mạn; không động thị phi nhân ngã, quyết không có phân biệt, chấp trước, đó là “Định”.
 
Cuốn “Kinh Kim Cương” tóm tắt đại cương và nguyên tắc thực hành trong sáu chữ. Tu là tu “tâm bất động”, không bị mọi dục vọng ở thế gian điều khiển, không bị dục vọng che mờ, không đắm chìm trong biển khổ.
 
Nhà Phật thường nói: tu Phật là tu tâm, tâm là Phật nên Phật không xa người, có tâm giác ngộ thì người không thể thành Phật, nhưng thiếu Bồ đề tâm.
 
Như Kinh Lăng Nghiêm nói: “Khi tâm điên loạn dừng lại, bạn sẽ giác ngộ.” Khi bạn buông bỏ tất cả các loại ham muốn và chấp trước ở thế gian và không còn bị chúng cám dỗ, bạn sẽ giác ngộ.
 
Tu Phật nhưng không tu tâm, thì dù bạn tu tốt đến đâu, nó vẫn là giả. Vì vậy, bạn phải tu luyện với ngũ dục và lục trần, và tâm của bạn phải trải qua nhiều khảo nghiệm và thờ ơ với mọi thứ trước khi bạn có thể thực sự tìm thấy con đường đúng đắn.
 
Chúng ta mỗi ngày không thể rời khỏi xã hội, không thể rời khỏi quần chúng, mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần không chướng ngại, không có ngăn ngại, có câu là "lý sự vô ngại, sự sự vô ngại".
 
Chướng ngại sanh ra ở chỗ nào? Sanh ra ở vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Chỉ cần bạn lìa khỏi vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thì sự sự vô ngại.
 
Sở dĩ tâm chúng ta loạn là vì chúng ta chấp tướng, nếu không chấp tướng là tâm mình không loạn. Rốt cuộc loạn cũng từ chấp mà ra. Chấp tướng tức là chấp tướng đẹp, tướng xấu, tướng hay, tướng dở... Những tướng đó vừa chấp là tâm loạn, vì thế nói ngoài lìa tướng tức là đối với tất cả tướng mình không chấp đó là thiền, trong tâm không loạn đó là định.
 
Ngoài nếu lìa tướng tâm tức chẳng loạn, bản tánh tự tịnh, tự định.
 
Nếu ngoài lìa tướng thì trong tâm không động, tâm không động đó là bản tánh mình tự tịnh tự định. Có nhiều người ngồi thiền trông cho được định. Không cần phải trông, ngồi mà mắt thấy tai nghe nhưng không chạy theo cảnh, đó là lìa tướng, là thiền; tâm lặng lẽ, không dấy khởi, đó là định, khi ấy gọi là thiền định.
 
Thiền định như thế mới gọi là Tự tánh thanh tịnh thiền, thiền thanh tịnh của tự tánh, chớ không phải định là quên hết tất cả, không nghe tiếng, không thấy người, không phải thiền do đè mà tâm yên hay là say trong chấp cảnh.
 
Có nhiều lối dạy tu thiền như dùng một đề mục, như quán bất tịnh chẳng hạn, người tu theo dõi cảnh bất tịnh đó, tâm say trong đó rồi quên thân, nghĩa là mượn cảnh mà quên, đó là thiền Tiểu thừa. Hoặc là tưởng không, tưởng lửa hay tưởng nước..., do tâm tưởng rồi say trong tưởng, quên thân gọi là định, nhưng đó là định trong tưởng.

 
Thay vì đặt nặng vào sự khác nhau của hình tướng như cái này đẹp - cái kia xấu, rồi các loại phân biệt khác như hay - dở, hơn - thua, khen - chê, được - mất... khiến cho tâm phân biệt bùng phát như chúng sinh vẫn thường làm, thì Phật dạy người tu hành cần giảm thiểu, dần dần triệt tiêu các tâm phân biệt này đi, xem mọi thứ bình đẳng, như vậy tâm sẽ trở nên bình yên trước mọi thay đổi của cuộc sống.
 
Do xem mọi thứ bình đẳng, sự bám chấp vào hình tướng trong tâm sẽ được giảm thiểu dần, ta không quá đặt nặng đây là tôi, là của tôi, kia là của người khác, phải giành giật hơn thua với người khác hay đủ mọi loại tâm lí, hành vi phát sinh giữa quan hệ tôi – người khác nữa, và người tu sẽ dần dần xuất hiện một tâm lí buông bỏ, không bám chấp vào chuyện hơn - thua, khen - chê, sướng - khổ, được - mất, có - không của thế gian nữa. Đó chính là tâm buông xả.
 
Khi có tâm buông xả, sự thay đổi khi sướng khi khổ, khi được khi mất… thay đổi thất thường của cuộc sống dần dần không còn ảnh hưởng đến tâm của người tu hành nữa.
 
Đối diện với lời khen - tiếng chê, tâm bình đẳng xem chúng như nhau, như tiếng gió thoảng bên tai, rồi sẽ biến mất chẳng còn dấu vết, vì thế tâm bình thản, không bị sự chê bai giày vò.
 
Đối diện với sự hơn - thua, tâm bình đẳng xem chúng như nhau, vì nay hơn người mai sẽ có lúc lại thua người, sự đời thay đổi không ngừng như sự lên xuống của sóng biển, không có gì chắc chắn, vì thế tâm bình thản, không bị cái khổ của sự thua thiệt giày vò.
 
Đối diện với sự được - mất, tâm bình đẳng xem chúng như nhau, vì nay được cái gì rồi chắc chắn sẽ có ngày phải mất nó đi, quy luật này không bao giờ thay đổi, ngay cả tính mạng này còn không có cách gì giữ mãi được, thì những thứ khác cách nào mà giữ được.
 
Mọi thứ ta ĐƯỢC rồi chắc chắn sẽ phải MẤT, giống như những thứ có được trong giấc mộng, tỉnh dậy liền biến mất, chẳng còn thấy đâu. Hiểu được vậy ngay từ đầu rồi thì sau này khi đối diện với sự mất mát, tâm vẫn bình thản, không bị cái khổ của mất mát giày vò.
 
Những sự việc khác cũng lại như thế, tâm luôn giữ bình đẳng, không để sự khác biệt của các hình tướng ảnh hưởng, thì sẽ có được sự bình thản để đối diện với mọi thay đổi của cuộc sống, và cái còn ở lại bền lâu trong tâm ta, đó là sự yên bình.
 
Niềm vui khi ta nhận được lời khen, hay khi thắng cái gì đó, được cái gì đó, thực ra sẽ nhanh chóng biến mất sau một thời gian ngắn, để lại trong tâm một sự thiếu vắng, hay một sự chán trường, thậm chí là cảm giác mất mát giày vò khổ sở. Không bao giờ có cách nào để duy trì những niềm vui ấy được vĩnh cửu cả.
 
Còn sự yên bình mà tâm đạt được khi thực hành tâm buông xả, thì nếu tu hành đạt đến cực hạn, sẽ trở thành vĩnh cửu, không bao giờ mất, đó là cảnh giới giải thoát của các bậc tu hành chứng được Thánh quả A La Hán, Bích Chi Phật, Bồ Tát, Phật, gọi là niết bàn.
 
Như vậy, trạng thái tu tập cao nhất của Phật giáo vốn chỉ được gói gọn trong 8 chữ “ngoài không chấp trước, trong không động tâm”. Điều cốt lõi vốn chỉ có vậy, nhưng làm được lại là điều chẳng hề dễ dàng. Vậy nên quá trình tu hành của Phật tử cần rất nhiều nỗ lực và sự giác ngộ từ chính bản thân.