Cài đặt ngày sinh
Cài đặt ngày sinh (DL), giới tính để xem được nhanh nhất

Tứ vô lượng tâm là gì? Phước báu và lợi ích khi tu tập để chuyển hóa ác nghiệp

Thứ Hai, 22/07/2024 08:18 (GMT+07)
(Lichngaytot.com) Tứ vô lượng tâm là gì? Trong đạo Phật, Tứ vô lượng tâm, hay tức là “bốn món tâm rộng lớn không lường được”, là những đặc tính giúp con người trở nên tốt đẹp, hoàn thiện. Mỗi người, đặc biệt là Phật tử nên cố gắng thực hành “Tứ vô lượng tâm” để giữ tâm bình thản, không xao động, tránh được tức giận và phiền não trong đời sống.
Mục lục (Ẩn/Hiện)

1. Tứ vô lượng tâm là gì?

 
Tu vo luong tam la gi
 
Khi nói về Tứ vô lượng tâm, ta thường hiểu: Tứ là bốn; vô lượng là rộng lớn, cùng khắp cả không gian và thời gian, không thể lường tính được.
 
Vô lượng tâm là tâm có tình yêu thương rộng lớn, bao trùm tất cả vô lượng chúng sanh, cũng gọi là “đẳng tâm” vì không phân biệt hơn thua, tốt xấu, luôn đem tình thương bình đẳng đến cho muôn loài.
 
Như vậy, Tứ vô lượng tâm là “bốn món tâm rộng lớn không lường được”. Đó là các tâm: Tâm Từ (mettā), Tâm Bi (karuṇā), Tâm Hỷ (muditā) và Tâm Xả (upekkhā), hay gọi ngắn gọn là bốn trạng thái Tâm Từ – Bi – Hỷ – Xả không giới hạn, không phân biệt, chấp trước. Chỉ có chư Phật, Bồ Tát và Thánh Đệ Tử mới đầy đủ trọn vẹn bốn tâm vô lượng này.
 
Bốn đức tính của Tứ vô lượng tâm luôn tiềm tàng bên trong lòng mỗi người chúng ta. Dù cho giàu sang hay nghèo khổ, dù thông minh trí tuệ hay đần độn dốt nát, dù ốm gầy hay mập mạp, cao hay thấp, mạnh mẽ hay yếu đuối, xinh đẹp hay xấu xí thì Tứ vô lượng tâm đều có sẵn trong tâm, trong lòng chúng ta.
 
Chúng chính là bốn đề mục để tu tập thiền định Sắc giới, tức là thành tựu các trạng thái tâm thanh cao, lìa bỏ đời sống dục vật chất. Nói cách khác, bốn tâm vô lượng này sẽ không được an trú nếu như các trạng thái tâm tham, sân, các tâm sở bất thiện cũng như các triền cái chưa được yên lặng.
 
Tứ vô lượng tâm này là phần tinh túy cao cả nhất trong tâm hồn và đồng thời là lý do, nền tảng cho mọi hành động của mỗi ta. Tâm hồn chúng ta có được sự tinh khiết, thanh tịnh thì cũng nhờ có Tứ vô lượng tâm
 

2. Những đặc tính cơ bản của Tứ vô lượng tâm

 
Cac dac tinh cua Tu vo luong tam la gi
 
Trong mỗi con người, ai cũng có Tâm dũng mãnh dù tốt hay xấu, nhưng vì chúng ta do nghiệp mà tái sinh nên tâm tham, sân, si hãy còn nổi lên. Với người biết tu tập theo giáo lý mà Phật đã dạy thì luôn vun bồi đức hạnh, dù là những việc làm đơn giản nhất. Bởi vì họ tin nhân quả, do đó, họ tu tập thực hành theo giáo lý, nhất là “Tứ vô lượng tâm”.
 

2.1 Tâm Từ (METTA)

 
Tâm Từ (Metta) được gọi là tình thương, là lòng từ ái. Tuy nhiên, tình thương cũng như lòng từ ái không đủ để diễn tả hết nghĩa của chữ Từ trong Tứ vô lượng tâm.
 
Khi nói con người có tình thương đối với một người hay một vật thì tức là có sự luyến ái của ta trong đó. Nói ta có tình thương thì dĩ nhiên là trong đó sẽ có sự lựa chọn, so sánh và đánh giá. Nghĩa là khi thương, trong tiềm thức con người sẽ bao hàm cả sự không thương, không ưa cái gì trái nghịch. Hơn nữa, có những tình thương khiến con người muốn làm chủ, muốn sở hữu.
 
Cuộc sống của chúng ta nếu thiếu tình thương con người sẽ trở nên lãnh đạm, thờ ơ, vì thế ta hãy cố gắng bồi đắp tình thương. Đặc tính của Từ là đem lại sự an lạc và làm cho sân lắng dịu.
 
Tâm Từ không bao giờ làm hại ai, nhưng nếu không cẩn thận Mettā dễ chuyển thành Tanha (tâm luyến ái). Có đôi lúc Tâm Từ cũng khiến nhiều người lợi dụng lòng tốt. Nhưng nếu không có Tâm Từ ta có cảm hóa họ được chăng! Thật vậy, khi ta muốn cho ai vật gì, trước tiên ta phải có vật ấy và phải biết lợi ích khi sử dụng nó ra sao.
 
Tóm lại, những tình thương nào mà không trong trẻo được thì dĩ nhiên không thể đồng nghĩa với Tâm Từ trong Tứ vô lượng tâm. Bởi lẽ, những tình thương đó đều xây đắp cái điểm tựa của nó trên bản ngã của con người. Cái tôi vẫn tồn tại cùng với cái tâm còn bị đè nén dưới những lớp tham, sân, si thì không thể nào có được Tâm Từ của Tứ vô lượng tâm theo nghĩa của Đức Phật.
 
Ngoài ra, Tâm Từ còn khiến cho chúng ta không những thương người thân, bạn bè, những người thân quen mà còn thương luôn đến cả những kẻ mình cho là thù địch, kẻ thù; thương người tốt cũng như thương người xấu, người thiện cũng như người ác, thương không chọn lựa mà chỉ nghĩ rằng người xấu và người ác chỉ toàn là những người chưa tốt và chưa thiện mà thôi.
 
Hơn thế nữa, Tâm Từ lại là một tình thương không phải giới hạn trong một gia đình, một bộ lạc, một quốc gia, một tôn giáo… Tình thương này không những bao trùm lên toàn thể nhân loại mà còn lan tràn ra đến cả những sinh linh vạn vật, nơi nào có sự sống là có tình thương. Nó cũng bao trùm lên tất cả chúng sinh hữu hình, vô hình, đã, đang và sẽ có trong cõi Sa Bà.
 
Người Phật tử xứng đáng là người luôn luôn nuôi trong tâm đức của mình từ vô biên vô hạn, bởi căn bản của giáo lý nhà Phật chính là Tâm Từ. Bất kỳ chúng sanh có được lòng Từ như vậy là đã đạt được một vị trí tinh thần cao cả, nhờ đó được yên vui trong kiếp này và sẽ mang theo trong những kiếp sau để tăng bội sự yên vui hạnh phúc.
 

2.2 Tâm Bi (KARUNA)

 
Bi có nghĩa là buồn. Tuy nhiên, buồn ở đây không phải là vì tâm tư, phiền não riêng của mình, không phải là vì không được đắc nguyện trong vọng tưởng cũng như không phải buồn vì bản ngã của mình. Mà Bi ở đây là buồn vì cái buồn của người khác, khổ vì cái khổ của người khác.
 
Tâm Bi cho chúng ta thấy được cái đau thương, phiền não của người khác cũng như chính của ta; làm cho chúng ta hòa mình với mọi người và cảm thấy đau khổ như họ, từ đó khiến chúng ta tận tâm giúp đỡ những người ấy ra khỏi cảnh khổ.
 
Đặc tính của Tâm Bi là ý muốn giúp đỡ người khác thoát khỏi một cảnh khổ. Người có Tâm Bi không ngần ngại khi hy sinh cho người khác. Chúng ta cũng lưu ý, nếu thương mà không có trí tuệ thì tình thương ấy sẽ trở nên mù quáng.
 
Đối với xã hội, nếu dùng Tâm Bi để cư xử trong cuộc sống, ắt hẳn sẽ đem lại nhiều an vui và lợi lạc. Không phải ai sinh ra ở đời đều có đủ phước báu, lục căn trọn vẹn, cơm ăn áo mặc, gia đình hạnh phúc. Nếu biết đặt mình vào những vị trí thiếu hụt kia tự nhiên ta thấy có sự đối đãi khác nhau.
 
Khi tình thương yêu được chia sẻ ta cũng nhận lại tình cảm thương yêu. Nói cách khác, khi hiểu được Tâm Bi trong Tứ vô lượng tâm thì người đó đã hiểu được phần nào về đối tượng cần tiếp nhận và phải biết đặt đúng nơi đúng chỗ.
 
Các yếu tố trong Tứ vô lượng tâm đều có liên quan mật thiết với nhau. Trong Từ có Bi và Bi do lòng Từ mà ra. Theo đó, Tâm Bi luôn khiến ta hành động ngoài ý vụ lợi, có nghĩa là hành động mà không mong cầu cái phần lợi nào trả lại cho mình, hoặc vật chất hoặc tinh thần, bởi vì lẽ dĩ nhiên là Tâm Bi cũng giống như Tâm Từ, hoàn toàn tác động ngoài cái tôi.
 
Hơn thế nữa, chúng ta không vì lẽ muốn làm chấm dứt đi cái khổ cho người này mà lại phải gây cái khổ cho kẻ khác, làm như vậy chỉ là dời cái đau khổ từ chỗ này qua chỗ khác mà thôi. Chúng ta không có quyền lấy cái hạnh phúc, vui vẻ của người này và bắt họ phải đổi lấy cái đau khổ của kẻ khác.
 
Tâm Bi giúp cho ta thông cảm được cái khổ của người khác, muốn giải khổ cho họ mà không oán ghét lên những người sung sướng, hạnh phúc. Đồng thời, Tâm Bi chỉ cho phép ta hy sinh những gì của bản thân chúng ta. Tâm Bi không phải nhằm mục đích lập lại mọi thăng bằng mà mục đích của nó chính là giải khổ thực sự bằng cách đem người khổ ra khỏi cảnh khổ chứ không phải dời chỗ cái khổ nơi này qua nơi khác.
 

2.3 Tâm Hỷ (MUDITA)

 
Ngược lại với Bi, Hỷ chính là vui do cái vui của người khác. Hỷ chính là sự vui mừng, hoan hỷ với người, hoan hỷ với sự thành công hay điều phước thiện của họ.
 
Thế thường người đời vì tư lợi, ích kỷ và ganh tị, vì tham, sân, si mà trong lòng không có được đức Hỷ, không thể chia niềm vui hỷ lạc với người khác khi thấy họ có một thành công nào của họ.
 
Trong lòng một khi đã không có Bi thì tức không thể có Hỷ. Nói cách khác, khi lòng ta không thông cảm được với cái đau khổ của kẻ khác thì dĩ nhiên ta lại càng không thể thành thật và vui vẻ trọn vẹn cùng với kẻ khác với cái vui của họ. Chướng ngại duy nhất làm con người chúng ta không thể có được lòng Bi, lòng Hỷ đó chính là lòng ích kỷ, vị ngã, tham lam.
 
Khi thấy một người nào hân hoan, vui vẻ một toại nguyện, một thành công nào đó của họ, tức thì lòng ta sẽ đâm ra ham muốn, thèm thuồng cái thành công ấy. Mặc dù bên ngoài ta chúc mừng, khen tặng, thì ở thâm tâm, trong tiềm thức của ta vẫn luôn có một ám ý tham muốn một phần nào.
 
Bấy nhiêu đó đủ làm cho cái vui, cái Hỷ của ta không được hoàn toàn trong sạch cũng như hoàn toàn đặt ngoài cái bản ngã của ta. Phàm cái bản ngã của ta đã còn chính là còn ba chướng ngại vật: Tham, sân, si.
 
Người có Tâm Hỷ đi đâu ai cũng mến thương, bởi nhân họ gieo là niềm an vui với người khác. Đặc tánh của Tâm Hỷ trong Tứ vô lượng tâm là sự mừng vui nhẹ nhàng và thanh cao, khác với niềm vui của thế tục biểu hiện ra bên ngoài một cách thô thiển, rộn ràng.
 
Hỷ không phải là trạng thái thỏa thích cạn cợt hay hình thức, cũng không phải là có sự cảm tình hay thích thú với một ai đó mà biểu lộ. Nên người có Tâm Hỷ thường nhẹ nhàng nhu mì, có được tâm ấy do năng lực tu tập mà ra.
 
Tóm lại, Hỷ không phải là hả hê của tâm hồn hay xác thịt bị cảm kích nhất thời ở thường tình và thế tục; nó không phải là trạng thái vui tươi thành thật bên ngoài nhưng trong thâm tâm hay tiềm thức lại còn ẩn một niềm ham muốn ước ao. Hỷ phải là một trạng thái của tâm hoàn toàn trong trẻo, thanh tịnh, không vị ngã, lấy cái vui của người khác làm cái vui cho ta mà không ý mong lợi lộc gì vì ta đặt cái vui của ta ngoài bản ngã.
 

2.4 Tâm Xả (UPEKKHA)


Xả là một trạng thái của tâm, khiến giữa ta và toàn thể chúng sinh, vạn vật không còn sự chia cách, riêng biệt, chúng sinh cùng với ta trở thành một thể đồng nhất.
 
Tâm Xả không phải là buông thả mọi thứ, không quan tâm đến ai, không cần biết chuyện gì đang xảy ra xung quanh bởi như vậy là vô trách nhiệm. Xả ở đây là xả bỏ đi sự hơn thua, được mất, khen chê trong cuộc sống. Người có Tâm Xả là người hiểu rõ, thấy rõ sự việc qua Chánh Kiến và Chánh Tư duy. Có như vậy, tâm mới nhẹ nhàng thanh thoát.
 
Đặc tính của Tâm Xả là tính thản nhiên đối với loài hữu tình. Nhiệm vụ của nó là thấy sự bình đẳng trong chúng sanh. Biểu hiện bằng sự hoan hỷ không có dính mắc, khiến những người xung quanh có được niềm an lạc. Một người có tâm hạnh xả ly, dù sống ở đâu cũng thấy an lạc. Bởi họ biết tùy thuận mà sống, không chấp trước hay vướng mắc dù vui hay buồn họ cũng nhẹ nhàng an yên.
 
Đặt Tâm Xả ngoài cái tôi, cái ta là cả một chướng ngại vật làm cho ta thấy được một bên là bản thân và bên kia là kẻ khác, là vạn vật, là sinh linh, và cũng là bản ngã của nó. Một khi cái tôi không còn nữa, tức thì cái gì không phải của bản thân trước kia sẽ không còn phân biệt được nữa.
 
Lúc này, chúng ta sẽ đồng thể hóa với toàn thể chúng sinh và vạn vật bằng cách tiêu diệt sự đối chiếu, sai biệt giữa bản thân và ngoại cảnh, tiêu diệt bởi vì đã diệt ngã. Diệt ngã là không còn sự lựa chọn, đối chiếu, luyến ái, bám giữ; không còn lấy cái tôi của bản thân làm tiêu chuẩn, làm chỗ chứa đựng.
 
Lúc ấy, người có được Tâm Xả đã trở thành như một tấm gương trong phản chiếu lại tất thảy sự vật chứ không từ khước, xua đuổi. Người có Tâm Xả không phải là con người lì lịch, không có thái độ thờ ơ trước cảnh đau thương của thế sự.
 
Nhưng không phải ai cũng dễ dàng vượt qua được sự khen chê mà xả bỏ, bởi chúng ta là người đang trên con đường tu tập còn dính mắc rất nhiều, cần phải luyện tập. Phật tánh luôn có sẵn trong mỗi con người chúng ta nhưng do bụi trần làm che mờ đi phần nào, cho nên chúng ta cần phải huấn luyện tâm của mình để tâm trở về với bản thể nguyên vẹn của nó, đây là cốt lõi tu tập cũng là nền tảng cho người học Phật.

Xem thêm: 4 kiểu người không cần bái Phật vẫn tự kết Phật duyên là ai?
 

3. Lợi ích của Tứ vô lượng tâm

 
Khi chúng ta đã tu tập được Tứ Vô Lượng Tâm, sẽ thấy được những lợi ích của từng tâm như sau:
 
- Lợi ích của Tâm Từ là giúp ta xóa đi sân hận, ác ý, hận thù. Người có tâm Từ rộng lớn, vùng yêu thương tỏa ra rộng lớn ai cũng quý mến muốn ở gần.
 
- Tâm Bi có công năng trừ được khổ đau cho người, tạo nên sự yêu thương vô bờ, là vị thuốc diệt trừ bệnh hung bạo, độc ác, âu sầu phiền não.
 
- Tâm Hỷ giúp ta tiêu tan đi lòng ganh tỵ đố kỵ với người, thay vào đó là những nụ cười ấm áp trao cho mọi người.
 
- Tâm Xả sẽ đẩy lùi tâm những cố chấp, luyến ái, bất mãn, tâm luôn vô tư an tĩnh không bị ngũ dục lục trần chi phối. Vì những lợi ích như vậy nên bất kể là người xuất gia hay tại gia, chúng ta hãy cố gắng trau dồi, không thể nhân danh là người con Phật mà lại thiếu lòng từ bi để nuôi lớn tâm.
 
Đức Phật dạy rằng: "Này các thầy Tỳ-kheo! Khi từ tâm giải thoát đã được tu tập, được làm cho sung mãn, được làm thành bánh xe, được có nền tảng vững chắc, được an trú khéo léo, được củng cố bền bỉ, được huấn luyện thích đáng... thì sẽ có được 11 lợi ích to lớn vậy."
 
Tựu chung lại, lời Phật dạy Tứ vô lượng tâm có tất cả 11 lợi ích như sau:
  • Giấc ngủ được an lành, an lạc: Ngủ không trằn trọc, không quay qua quay lại, không ngáy, không rên, đi vào giấc ngủ một cách nhẹ nhàng, mát mẻ như đi vào cõi thiền.
  • Thức trong an lạc: Sớm mai thức dậy rất thoải mái, không có bực dọc, cau có, không ngáp ngắn, ngáp dài. Thức dậy với sắc mặt như đóa hoa tươi thắm trong nắng ấm ngày xuân.
  • Không chiêm bao ác mộng: Nếu có nằm mộng thì thường thấy mộng lành như thấy bảo tháp lộng lẫy, huy hoàng; thấy chùa chiền trang nghiêm, thanh tịnh; thấy điện Phật ngạt ngào trầm hương; thấy hoan hỷ lễ bái cúng dường; thấy nghe Pháp, tụng kinh; thấy rừng hoa thơm lừng nở rộ; thấy những cung điện nguy nga, sang trọng ở các cảnh trời... Không có những ác mộng như bị giặc vây, lửa đốt, té xuống vực sâu, thú dữ ăn thịt, hoặc thấy dao đâm, tên bắn, cưa xẻ người, hầm phân dơ uế...
  • Được mọi người yêu mến: Ở đâu ai cũng thương, cũng mến; đến đâu cũng được người giúp đỡ, bảo bọc; không có người ghét, kẻ thù.
  • Được phi nhân ưa thích: Phi nhân là không phải người, có thể là các loại địa tiên, thọ thần, atula, dạ xoa... Người có Tâm Từ ở đâu là xung quanh đó đều được mát mẻ, an lành; các loài phi nhân ở xung quanh được hưởng không khí hòa bình, an lạc, nên thường được chúng quý trọng, mến yêu.
  • Được chư thiên hộ trì: Đối với người có Tâm Từ, chư thiên rất mến yêu nên họ sẵn lòng hộ trì, che chở. như cha mẹ bảo hộ cho đứa con một.
  • Lửa, độc chất, khí giới không làm hại được: Khi hành giả an trú Tâm Từ thì thân tâm vị ấy được bao trùm bởi một thứ điện năng đặc biệt, chẳng gì có thể xâm hại, xâm phá được (Khi đang an trú Tâm Từ thì có năng lực như vậy, nhưng khi xả thiền, không còn an trú từ tâm thì vẫn bị hại, bị xâm phạm).
  • Tâm không tán loạn: Tâm vị ấy luôn được tập trung, luôn luôn được dễ dàng an trú, luôn định tỉnh, ổn định, trầm tĩnh. Vị ấy muốn đi vào định không thời gian nào cũng được.
  • Sắc mặt luôn mát mẻ, khinh an, thư thái: Nghĩa là nhờ năng lực Tâm Từ tỏa ra, vị ấy luôn tươi vui, hoan hỷ, không nói nặng lời ai, không nóng nảy; thường trực khoan hòa, từ ái, dịu hiền, mềm mỏng... Khí sắc vị ấy luôn tươi nhuần phỉ lạc.
  • Lúc lâm chung không mê loạn: Do nhờ chánh niệm với từ tâm, vị ấy làm chủ được tử niệm cuối cùng nên dễ dàng ra đi như đi vào một giấc ngủ ngon.
  • Sanh vào Phạm thiên giới: Nếu vị ấy không chứng quả cao hơn thì khi hết đời này, sẽ hóa sanh vào Phạm thiên giới như thức dậy từ một bình minh đẹp trời.

4. Cách tu tập Tứ vô lượng tâm trong cuộc sống

 
Cach tu tap Tu vo luong tam
 
Chúng ta thấy rằng chư Phật, chư Bồ Tát và các vị Thánh Đệ Tử mới có đầy đủ bốn đức tánh cao thượng này. Nhưng không phải tự nhiên quý ngài có được, mà phải tu tập tích lũy nhiều kiếp mới thành tựu.
 
Chúng ta cũng vậy, muốn đi trên con đường của các ngài thì phải từng bước trau dồi tích lũy, như một em bé muốn nói rành tiếng Việt, em phải bắt đầu bập bẹ những từ đơn giản. Chúng ta muốn có bốn tâm vô lượng phải bắt đầu bằng những ý nghĩ, hành động nhỏ bé thì mới đạt được cái lớn và cuối cùng là vô lượng. 
 

- Tu tập Tâm Từ:

 
Muốn nuôi dưỡng Tâm Từ mỗi ngày, ta hãy nguyện cho tất cả chúng sanh được an lạc, hạnh phúc, không bệnh tật ưu não. Tuy nói đơn giản nhưng thực hành rất khó, bởi chúng ta là những phàm phu, tâm phàm trần còn lắm những lớp bụi vô minh, tham sân si đầy rẫy.
 
Trong Kinh Pháp Cú có dạy: “Lấy không giận thắng giận, lấy thiện thắng không thiện, lấy thí thắng xan tham, lấy chơn thắng hư ngụy” chính là đây vậy.
 

- Tu tập Tâm Bi vô lượng:

 
Khi đã tu Tâm Từ thì Tâm Bi sẽ xuất hiện kèm theo. Bởi có tình thương, ta mới dùng đôi tai để lắng nghe, dùng trái tim để thấu hiểu và sử dụng bàn tay để nâng đỡ những người cùng khổ, ta có thể đem ánh sáng Phật pháp đến những nơi còn đầy bóng tối.
 
Trong kinh Trung A Hàm, Đức Phật dạy: “Nếu người nào tự làm lợi ích, cũng làm lợi ích cho người khác, làm lợi ích cho mọi người, xót thương thế gian, cầu nghĩa lý, lợi ích, an ổn và khoái lạc cho trời và người, người ấy là bậc nhất, là tuyệt diệu giữa mọi người”. 
 

- Tu tập Tâm Hỷ vô lượng:

 
Ta thường nghe nhân nào quả nấy, nếu sống tốt sẽ được gần gũi với người tốt và muốn cảm hóa khuyên bảo ai thực hành Tâm Hỷ thì bản thân phải có trước. Như trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật dạy: 
 
“Như bông hoa tươi đẹp
Có sắc lại thêm hương
Cũng vậy, lời khéo nói
Có làm, có kết quả”.

Với người biết tu tập, họ luôn dùng Tâm Hỷ để trau dồi tâm mình. Bởi tâm vi tế khó thấy khó sửa, nếu ở mặt ngoài, tâm thô dễ thấy như hành động hay lời nói, còn tâm vi tế bên trong chỉ có bản thân mới biết được. 
 

- Tu tập Tâm Xả:

 
Khi có Tâm Hỷ thì chắc chắn ta đã có Tâm Xả. Vì xả được mọi thứ ngũ dục ràng buộc mình mới có niềm vui với tha nhân. Có thể nói, nguyên nhân chính khiến con người khổ đau sợ hãi là do tâm chấp thủ.
 
Cho nên Đức Phật dạy muốn có an lạc hạnh phúc thì phải tu Tâm Xả, lánh xa tham ái và bất mãn, bình thản trước khen chê được mất, luôn an tịnh và bình lặng trước những thăng trầm của cuộc sống, đó là kết tinh của quá trình tu tập Tâm Xả.
 
Tóm lại, để nuôi dưỡng và phát triển tâm Từ – Bi – Hỷ – Xả, chúng ta phải tập cho tâm ấy khởi lên thường xuyên bằng những lời nguyện: Nguyện cho tất cả chúng sanh được an vui hạnh phúc, siêng làm việc lành, thoát ly mọi đau khổ, không tạo điều ác. Có tâm hoan hỷ, không ganh ghét oán thù lẫn nhau.
 
Từ – Bi – Hỷ – Xả là những đức hạnh tốt lành và cao đẹp để xây dựng nên một con người hoàn thiện, một gia đình hạnh phúc và một xã hội tốt đẹp. Vì vậy, ai có ước nguyện được sống trong hòa bình cần tu tập Tứ Vô Lượng Tâm và ai muốn giải thoát giác ngộ thì không thể nào bỏ qua bốn tâm cao thượng này, bởi đạo Phật là đạo của tình thương vậy.
 
Trên đây là những trích dẫn, thông tin Phật giáo giải thích chi tiết về Tứ vô lượng tâm hay còn gọi là Từ, Bi, Hỷ, Xả. Hy vọng rằng bài viết này đã đem đến cho các Phật tử các thông tin hữu ích. Chúc mọi người sớm thành chánh quả.
 

Tin cùng chuyên mục

X