(Lichngaytot.com) Trong Phật giáo, “đầu đà” mang ý nghĩa “trừ bỏ phiền não trần thế”, tu đầu đà tức là tu khổ hạnh. 13 hạnh đầu đà là 13 pháp môn tu tập khổ hạnh do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chế định. Bài viết này sẽ trình bày chi tiết về tu hạnh đầu đà là gì, cách thực hành tu 13 Pháp hạnh đầu đà và lợi ích của từng pháp môn.
1. Tu hạnh đầu đà là gì?
Hạnh đầu đà (tiếng Pali: Dhutanga) là những phương pháp tu tập khổ hạnh nhằm rèn luyện sự thanh tịnh, kỷ luật và lòng kiên nhẫn cho các hành giả Phật giáo.
Đầu đà bao gồm những hành động từ bỏ các tiện nghi và lối sống thoải mái để tập trung vào việc tu tập và tự giác ngộ. Người tu theo hạnh đầu đà chấp nhận những khó khăn trong các vấn đề ăn, mặc, ở.
Đây là một trong những thực hành nghiêm túc nhất trong Phật giáo, đặc biệt là trong truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy. Người thực hành hạnh này sẽ dễ thúc liễm thân tâm, thanh tịnh ba nghiệp, trừ bỏ phiền não cấu trần.
Hạnh đầu đà bao gồm 13 pháp tu khổ hạnh khác nhau, mỗi pháp đều mang một ý nghĩa đặc biệt và phương pháp thực hành riêng.
Đức Phật dạy rằng: “Pháp đầu đà thành tựu ba cõi: Người, trời và Niết Bàn như ý nguyện. Pháp đầu đà hằng nuôi dưỡng, bảo vệ chúng sinh, là ruộng phước cho chư Thiên và loài người. Nếu như chư Tăng thực hành hạnh đầu đà thì chính Pháp được trụ lâu dài ở thế gian và các quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán sẽ xuất hiện”.
13 pháp khổ hạnh đó là:
- Hạnh mặc y phấn tảo
- Hạnh ba y
- Hạnh khất thực
- Hạnh khất thực từng nhà
- Hạnh nhất tọa thực
- Hạnh ăn bằng bát
- Hạnh không để dành đồ ăn
- Hạnh ở rừng
- Hạnh sống bên gốc cây
- Hạnh ở giữa trời
- Hạnh ở nghĩa địa
- Hạnh nghỉ chỗ nào cũng được.
- Hạnh ngồi không nằm
2. Nguồn gốc của tu hạnh đầu đà
Nguồn gốc của tu hạnh đầu đà được cho rằng bắt nguồn từ khi Thái Tử Tất Đạt Đa (sau này trở thành Đức Phật Thích Ca Mâu Ni) đi qua bốn cửa thành, thấy rõ 4 sự thật của cuộc đời: “Sinh, lão, bệnh, tử” thì Ngài đã giác ngộ và phát tâm dũng mãnh dứt bỏ cung thành điện ngọc, vợ đẹp, con yêu, trút bỏ áo Hoàng bào của một vị Thái tử để mặc lên chiếc áo của một vị tu sĩ và bắt đầu cuộc hành trình đi tầm sư học đạo.
Theo quan niệm lúc bấy giờ là phải thật khổ thì mới đắc đạo, vì vậy, ngài đã bỏ ra 5 năm tầm sư học đạo, 6 năm khổ hạnh rừng già, thực tập tất cả các phương pháp tu khổ hạnh: Hành thân hoại thể, phơi nắng, phơi sương, ngày ăn một hạt đỗ hoặc một hạt mè, có khi nhịn đói,... đến mức thân thể tiều tụy, thậm chí suýt chết.
Lúc ấy, Ngài giác ngộ ra rằng, tu khổ hạnh cực đoan không đem lại lợi ích và từ bỏ lối tu khổ hạnh cực đoan, quay trở về tu tập theo con đường trung đạo, tức là nuôi dưỡng thân này có đủ sức khỏe để hành các Pháp.
3. Phân loại 13 hạnh đầu đà
13 Hạnh Đầu Đà được chia thành 3 nhóm chính dựa trên mục đích tu tập:
- Nhóm về ăn uống: Bao gồm 5 pháp:
- Hạnh Nhất Tích Bữa: Chỉ ăn một bữa mỗi ngày.
- Hạnh A Trai: Chỉ ăn thức ăn do người khác cúng dường.
- Hạnh Nhất Xú Y: Chỉ mặc một bộ y.
- Hạnh Nhất Xú Nhạ: Chỉ sử dụng một bát để ăn.
- Hạnh Cát Tàng: Không ăn thức ăn được mời riêng.
- Nhóm về chỗ ở: Bao gồm 6 pháp:
- Hạnh Nghĩa Địa: Ngủ ở nghĩa địa.
- Hạnh Trú Trúc Lâm: Ngủ dưới tán cây.
- Hạnh Chỗ Nào Cũng Được: Ngủ ở bất cứ nơi nào.
- Hạnh Ba Y: Mặc ba y vá.
- Hạnh Nhất Xú Y: Chỉ mặc một bộ y.
- Hạnh Nhất Xú Nhạ: Chỉ sử dụng một bát để ăn.
- Nhóm về pháp hành: Bao gồm 2 pháp:
- Hạnh Khất Thực: Đi khất thực để xin thức ăn.
- Hạnh Nhất Xú Nhạ: Chỉ sử dụng một bát để ăn.
Chúng ta cũng có thể tóm tắt về 13 hạnh đầu đà như sau:
- Về việc mặc: người tu hạnh đầu đà chỉ mặc ba y, không nhận thêm y thứ tư. Vải lượm ở nghĩa địa, ngoài đường, đống rác đem về chắp vá khâu lại thành y để mặc, gọi là y phấn tảo. Không nhận y do thí chủ may sẵn cúng dường.
- Về việc ăn: người tu hạnh đầu đà chỉ ăn thức ăn trong bình bát, ăn bằng cách đi khất thực, khi khất thực phải đi tuần tự từng nhà, không phân biệt nhà giàu nhà nghèo, không phân biệt thực phẩm ngon dở, ăn ngày một bữa, ngồi ăn chỉ một lần, khi đã đứng lên rồi thì không ngồi xuống ăn lại. Không cất chứa hoặc để dành thức ăn qua ngày hôm sau.
- Về việc ở: người tu hạnh đầu đà ở gốc cây, ở rừng, ở nghĩa địa, ở giữa trời, ở chỗ nào cũng được miễn là an toàn, an ninh, đặc biệt chỉ ngồi không nằm khi ngủ cũng trong tư thế ngồi.
Công dụng của pháp đầu đà là để rèn luyện đức tính thiểu dục tri túc và ngăn ngừa lòng tham dục. Trong điều kiện sống ngày nay, khó ai có thể thực hành được 13 hạnh đầu đà này.
4. Ý nghĩa các Pháp của hạnh đầu đà
4.1 Hạnh mặc y phấn tảo
Mặc y phấn tảo là hạnh đầu đà đầu tiên, có nghĩa là mặc y phục làm từ vải bỏ đi, nhặt từ bãi rác hoặc từ những nơi không còn sử dụng nữa. Đây là cách để hành giả tránh xa sự phù phiếm và tập trung vào cuộc sống đơn giản, tiết kiệm.
Hành giả sẽ tự mình tìm và nhặt những mảnh vải cũ, sau đó khâu lại thành y phục. Quá trình này không chỉ giúp tiết kiệm tài nguyên mà còn rèn luyện lòng khiêm tốn và biết ơn.
Vị hành giả tu tập không nhận sự cúng dường y áo của người khác mà đi nhặt những vải này. Cho nên không bị lệ thuộc vào người khác.
4.2 Hạnh tam y
Hạnh tam y tức là vị tu sĩ tu hạnh đầu đà chỉ có ba y, bao gồm: thượng y, trung y và hạ y. Hay tức là y nội, y ngoại và y đại.
Hành giả sẽ tuân thủ việc chỉ sử dụng ba mảnh y phục này trong suốt quá trình tu tập, không thêm bớt hoặc thay đổi y phục khác, dùng y đó đến khi rách, thậm chí là không còn chỗ vá mới được may mới. Đây là cách để giữ cuộc sống đơn giản và giảm bớt nhu cầu vật chất.
4.3 Hạnh khất thực
Ở hạnh này, người tu hành mang bình bát đi khất thực để nuôi sống bản thân mình. Hành giả không đợi tín chủ mời đến nhà để cúng mà phải mang bình bát khất thực.
Đây là cách để hành giả rèn luyện sự khiêm nhường và lòng biết ơn đối với cộng đồng.
4.4 Hạnh khất thực từng nhà
Đây là việc đi khất thực theo từng nhà, không vì chọn gia chủ giàu sang mà bỏ những gia đình nghèo khổ, không tới nơi có nhiều đồ ăn ngon mà phải khất thực tuần tự. Đó là một hạnh của người tu hành Pháp đầu đà.
4.5 Hạnh ăn một bữa trong ngày
Ăn một bữa trong ngày là hạnh đầu đà tiếp theo, có nghĩa là chỉ ăn một bữa trong ngày thường là vào buổi trưa. Điều này giúp hành giả rèn luyện sự kiểm soát bản thân và tiết chế các nhu cầu cơ bản.
4.6 Hạnh ăn bằng bát
Hành giả chỉ ăn những thức ăn xin được trong bình bát, không nhận bát thứ hai, không sử dụng nhiều vật dụng. Điều này tượng trưng cho sự giản dị và không lệ thuộc vào những tiện nghi không cần thiết.
4.7 Hạnh không nhận tàn thực
Hạnh này tức là không dùng thực phẩm dư thừa. Vị hành giả khi thọ thực không để dành đồ ăn còn dư (hoặc đồ tín chủ cúng dường) cho ngày hôm sau.
Hoặc cũng có thể hiểu là không giữ lại thức ăn cho lần ăn sau, sống trong sự thanh tịnh và từ bỏ. Điều này rèn luyện tính kỷ luật và sự không chấp giữ.
4.8 Hạnh ở rừng
Ở nơi thanh vắng có nghĩa là sống ở những nơi hoang dã, xa lánh sự ồn ào và huyên náo của cuộc sống thành thị. Điều này giúp hành giả tập trung vào việc tu tập và rèn luyện tâm linh.
Hành giả sẽ chọn những nơi như rừng núi, hang động hoặc những khu vực ít người lui tới để sinh sống và tu tập. Việc này giúp giảm thiểu sự phân tâm và tăng cường khả năng tập trung.
4.9 Hạnh ở gốc cây
Ở dưới gốc cây có nghĩa là chọn gốc cây làm nơi cư trú. Đây là cách để hành giả sống gần gũi với thiên nhiên và giảm bớt các tiện nghi vật chất.
Hành giả sẽ tìm một gốc cây thích hợp và sử dụng nó như là nơi ở tạm thời. Việc này giúp rèn luyện sự chịu đựng và thích nghi với môi trường tự nhiên.
4.10 Hạnh ở ngoài trời
Ở nơi không có mái che là hạnh đầu đà thứ mười, có nghĩa là sống ngoài trời, không có bất kỳ mái che nào. Điều này giúp hành giả rèn luyện sự kiên nhẫn và chịu đựng các điều kiện khắc nghiệt của thời tiết.
4.11 Hạnh ở nghĩa trang
Hành giả sẽ chọn một nơi trong hoặc gần nghĩa địa để tu tập. Việc này giúp tăng cường sự chấp nhận và hiểu biết về cái chết, từ đó giảm bớt sự sợ hãi và lo lắng.
4.12 Hạnh ở chỗ nào cũng được
Tu sĩ tu hành hạnh đầu đà không chọn chỗ nghỉ, mà tùy thuận nghỉ ở đống rơm, gốc cây…, ngủ ở bất cứ nơi nào. Hạnh này giúp buông bỏ sự gắn bó với một nơi chốn cụ thể và rèn luyện tính linh hoạt.
4.13 Hạnh ngồi (không nằm)
Chỉ ngồi và không nằm xuống, ngay cả khi ngủ. Điều này rèn luyện tính kỷ luật và sự kiên định trong việc tu tập.
5. Lợi ích khi thực hành pháp tu hạnh đầu đà
Mỗi hạnh đầu đà đều mang một ý nghĩa sâu sắc trong việc rèn luyện tâm hồn và giúp người tu hành buông bỏ những ràng buộc thế gian. Qua việc thực hành những hạnh này, các vị xuất gia có thể đạt được sự thanh tịnh nội tâm và tiến gần hơn đến sự giác ngộ.
Việc thực hành 13 hạnh đầu đà không phải là pháp môn duy nhất của đạo Phật giúp hành giả đạt được Giác Ngộ, tùy vậy đây là hạnh tu được Đức Phật tán thán. Và thời còn Phật tại thế thì ngài Ca Diếp chuyên tu hạnh này.
Có thể kể ra những lợi ích khi thực hành pháp tu hạnh đầu đà như:
- Phát khởi và tăng trưởng 28 đức tính siêu việt:
Trong kinh Mi Tiên Vấn Đáp câu 177: “Đầu đà khổ hạnh có lợi ích gì”, Đại Đức Na Tiên có nói về công năng diệu dụng của 13 Pháp đầu đà, một vị Tỳ Kheo mà thọ 13 Pháp đầu đà thì gần kề bên Niết bàn (tức là thoát khỏi đau khổ ràng buộc của luân hồi sinh tử). Hơn nữa là mang lại lợi ích cho chúng sinh không thể kể siết.
Chính vì thế mà Ngài nhấn mạnh 100 cư sĩ đạt đạo, 1000 cư sĩ đạt đạo cũng không thể bằng một vị Tỳ kheo hành 13 Pháp Đầu Đà mà đắc đạo.
Trong đó có 28 đức tính cao thượng siêu việt của 13 Pháp đầu đà khổ hạnh đó là:
- Nuôi mạng trong sạch, không phải phiền đến ai.
- Sống an lạc quả, hạnh phúc
- Sống đời vô tội
- Giảm nỗi khổ cho người khác
- Không sợ hãi
- Không tổn hại ai
- Lộ trình tiến hóa đi lên
- Xa lìa điệu bộ hợm hĩnh khoe khoang
- Xa lìa sự say mê
- Hộ trì giữ gìn mình
- Mọi người thương tưởng
- Giáo hóa mình
- Buông dao, buông trượng không bao giờ phải đấu tranh ác hại ai.
- Rèn luyện sự thu thúc
- Thực hành đúng đắn thuận lợi mục tiêu của mình
- Làm cho mình được vắng lặng
- Làm cho mình thoát khỏi phiền não
- Dứt trừ sự luyến ái
- Giảm trừ sự sân hận
- Tháo gỡ si mê
- Tiêu diệt ngã chấp, dễ dàng đạt đạo
- Cắt đứt tư duy xấu xa
- Vượt hoài nghi
- Trừ lười biếng
- Tương tư không có chỗ nương
- Đức tính độ lượng vô giới hạn
- Diệt tận khổ đau
- Sinh ra nhiều thiện Pháp thù thắng:
13 Pháp đầu đà này trước hết được ví như đất vì đất là nơi nương tựa của mọi loài, Pháp đầu đà là nơi nương tựa sinh trưởng của mọi thiện Pháp và thực hành Pháp đầu đà sinh ra rất nhiều thiện Pháp.
13 Pháp đầu đà cũng được ví như nước bởi nước rửa sạch mọi bụi bặm dơ dáy, Pháp đầu đà rửa sạch trần cấu, uế ác. Và còn được ví như lửa đốt cháy mọi vật bởi Pháp đầu đà thiêu đốt phiền não, thiêu hủy các phiền não.
Bên cạnh đó, Pháp đầu đà ví như gió thổi bay đi tất cả mọi khí mọi mùi, thổi đi tất tất cả khí vị trần gian dù thanh hay trược, dù thơm hay thối. Nó được ví như thuốc để chữa bệnh, Pháp đầu đà đối trị tất cả tâm bệnh của tất cả con người.
Vì thế mà Đức Vua - Phật Hoàng Trần Nhân Tông ngay khi xuất gia liền thọ 13 Pháp đầu đà. Một ông vua sống trên nhung lụa, đứng đầu muôn dân mà khi xuất gia lại thọ khổ hạnh đầu đà thì đó phải là Pháp đặc biệt, tối thắng.
Đặc biệt, những ai thọ Pháp đầu đà thì rất dễ kiểm tâm. Ví như chúng ta có mấy chục bộ quần áo, khốn khổ vì nó; nhưng người tu Pháp đầu đà thì chỉ có ba y cho nên các Ngài kiểm tâm rất dễ, không tham đắm nhiều và hễ khởi lên ham muốn thì dễ dàng nhận diện ra tâm bất thiện đó của mình.
6. Những ai có thể thực hành Pháp hạnh đầu đà?
Bất cứ ai có đủ ý chí, sự kiên nhẫn và quyết tâm đều có thể thực hành Pháp hạnh đầu đà, nhưng kết quả có đắc tu hay không phụ thuộc vào mỗi người.
Có thể liệt kê những người có khả năng thực hành Pháp hạnh đầu đà như:
- Người có đức tin lớn.
- Người có tâm tàm quý (tức là hổ thẹn).
- Người phải mạnh khỏe, ít bệnh tật.
- Người thuần thục trong việc tìm kiếm chân lợi ích (tức là tìm kiếm chân lý).
- Người có nhiệt tình và chín chắn.
- Người có trí tuệ.
- Người ham thích học hỏi và có kiến thức.
- Người thọ trì kiên định.
- Người ít tìm lỗi của người khác.
- Người luôn luôn an trú tâm mình trong tâm từ bi.
Bên cạnh đó, có những cư sĩ tại gia sống đời ngũ dục mà tu tập đắc đạo quả hay dễ dàng thực hành hạnh đầu đà, chính là do nhiều kiếp về trước họ tu hạnh đầu đà.
Chính nhờ có tu hạnh đầu đà rồi nên trong tâm họ đã thành tựu ít nhiều những phẩm chất cao đẹp, họ không tham lam, ích kỷ, không đắm nhiễm vào ngũ dục nên kiếp này họ không cần phải thọ đầu đà nữa, chỉ nhờ nghe Pháp thực hành Pháp mà họ có thể đắc được đạo quả, họ chỉ tiếp tục làm lại công việc trước đây thành tựu các công đoạn đang còn dang dở mà thôi.
Bất kể những ai kiếp này mà họ thành tựu được một điều gì đó lớn lao thì phải biết rằng, không phải một kiếp này đâu mà họ đã tu dưỡng rèn luyện trong rất nhiều kiếp về trước.
7. Lưu ý khi tu tập 13 pháp hạnh đầu đà
Tu tập 13 hạnh đầu đà cần phải có sự hướng dẫn và cho phép của thầy tổ.
Người hành trì cần phải có đủ sức khỏe, tâm lực và sự chuẩn bị kỹ lưỡng trước khi thực hành.
Việc tu tập cần phù hợp với khả năng và điều kiện của mỗi người, không nên quá sức hoặc cưỡng cầu.
8. Một số thắc mắc về 13 hạnh đầu đà
8.1 13 hạnh đầu đà của ai?
13 hạnh đầu đà là những phương pháp tu tập được Đức Phật giảng dạy và thực hành bởi các đệ tử của Ngài, đặc biệt là các vị tỳ kheo.
Ngài Ca Diếp (Mahakassapa) là một trong những đệ tử nổi tiếng nhất của Đức Phật, người đã thực hành các hạnh đầu đà một cách nghiêm túc và kiên trì.
Hạnh đầu đà của Ngài Ca Diếp là những phương pháp tu tập khổ hạnh nghiêm túc nhằm rèn luyện sự thanh tịnh, kỷ luật và lòng kiên nhẫn. Qua việc thực hành các hạnh đầu đà này, Ngài Ca Diếp đã đạt được sự thanh tịnh nội tại và trở thành tấm gương sáng cho các hành giả Phật giáo noi theo. Hạnh đầu đà không chỉ là những phương pháp tu tập mà còn là cách để sống một cuộc sống đơn giản, thanh tịnh và hạnh phúc.
Tuy nhiên, các hạnh đầu đà không chỉ giới hạn cho riêng một vị tỳ kheo nào mà có thể được thực hành bởi bất kỳ hành giả nào muốn rèn luyện tâm trí và tinh thần theo cách này.
8.2 Đức Phật tu khổ hạnh bao nhiêu năm?
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tu khổ hạnh trong vòng 6 năm. Trong thời gian này, Ngài đã thử nhiều phương pháp khổ hạnh nghiêm ngặt với hy vọng đạt được giác ngộ. Tuy nhiên, Ngài nhận ra rằng những phương pháp khổ hạnh quá mức không dẫn đến sự giác ngộ mà chỉ làm hao mòn thân thể và tinh thần.
Cuối cùng, Ngài chọn con đường Trung Đạo, không quá khổ hạnh cũng không quá hưởng thụ, và đạt được giác ngộ dưới cội bồ đề.
8.3 Đức Phật tu khổ hạnh ở đâu?
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã tu khổ hạnh ở nhiều nơi trong khu vực rừng núi xung quanh Bodh Gaya, Ấn Độ. Một trong những nơi nổi tiếng mà Ngài đã tu khổ hạnh là rừng Uruvela (nay thuộc vùng Bodh Gaya).
Sau khi từ bỏ phương pháp khổ hạnh, Ngài đã đến Bodh Gaya và đạt được giác ngộ dưới cội bồ đề. Bodh Gaya hiện nay là một trong những thánh địa quan trọng nhất của Phật giáo, thu hút hàng triệu tín đồ và du khách từ khắp nơi trên thế giới.
13 hạnh đầu đà là những phương pháp tu tập khổ hạnh trong Phật giáo, nhằm rèn luyện sự thanh tịnh, kỷ luật và lòng kiên nhẫn cho các hành giả. Mỗi hạnh đầu đà đều mang một ý nghĩa và cách thực hành riêng, giúp hành giả đạt được sự thanh tịnh nội tại và sự hiểu biết sâu sắc về cuộc sống. Tuy nhiên, việc tu tập cần phải có sự hướng dẫn và thực hành đúng đắn để đạt được hiệu quả tốt nhất.
Hy vọng bài viết này đã cung cấp cho bạn đọc một cái nhìn toàn diện và sâu sắc để hiểu hơn pháp tu hạnh đầu đà là gì trong Phật giáo, từ đó có thể dễ dàng tu tập và rèn luyện bản thân.