(Lichngaytot.com) Dù Tôn giả A Nậu Lâu Ðà là ai, trong kiếp sống nào cũng được người người kính ngưỡng vì Ngài luôn thể hiện đức hạnh của mình trong bất cứ hoàn cảnh nào, với bất cứ ai.
Mục lục (Ẩn/Hiện)
1. Thời niên thiếu và duyên lành xuất gia
A Nậu Lâu Ðà (Aniruddha – Anurauddha) hay còn gọi là A Nâu Đà La có cha Ngài là Hoàng vương Amitodana - cậu của Đức Thế Tôn (hoàng đệ của Đức vua Tịnh Phạn).
Tôn giả sinh ra đã sống trong sự giàu sang, quyền quý của gia đình. Trong "Tôn Túc Kệ Ngôn" câu số 911 (Theragàthà 11), A Nậu Lâu Ðà đã tự mình diễn tả tóm tắt thời niên thiếu như sau:
"Tôi sinh ra trong hoàng cung ánh sáng,
Vương tộc Thích Ca, dòng họ của tôi.
Anuruddha là tên, cuộc sống vui cười,
Giữa nhung lụa và nhạc đời hầu hạ...".
(Đoạn văn đã được thoát dịch ra văn vần).
A Nâu Đà La cũng là vị Hoàng tử ưu tú của dòng họ Thích Ca với sự thông minh, thanh nhã và tinh thông võ nghệ. Ngài có giọng hát êm dịu mang cảm giác bình an và hạnh phúc cho người nghe.
Hoàng tử luôn cư xử chân thật, luôn nhu thuận, sống yêu thương hòa ái, đối xử với những người hầu cận thân thiết như một người bạn của mình.
Khi Đức Thế Tôn quay trở về kinh thành Ca Tỳ La Vệ, anh trai của Ngài - Hoàng tử Mahànàma chợt dâng niềm xúc động mạnh mẽ khi nghĩ rằng: "Nhiều hoàng thân trong gia đình "Vương Bá" (ám chỉ vua Tịnh Phạn) đã theo chân đức Phật xuất gia. Trong khi đó, chưa có một người nào thuộc gia đình ông (tức giòng ngự đệ Amitodana) góp mặt trong đời sống cao thượng Tăng Già. Nhất là ngoài ông ra, gia đình còn đến bốn Hoàng tử thông minh khỏe mạnh".
Thế nên Mahànàma thuyết phục em trai A Nậu Lâu Ðà theo Phật. Sau cuộc trò chuyện, A Nậu Lâu Ðà cảm thấy cuộc sống của một vị Sa môn trong Tăng đoàn mới thật sự thuần khiết và thanh tịnh.
Bởi vậy Hoàng tử quyết tâm rời bỏ cuộc sống vương giả để trở thành một vị tu sĩ xuất gia. Kết quả là không chỉ có mình Ngài mà có tới 6 Hoàng tử Thích Ca (Sakya): Bhaddiya, Anuruddha, Ànanda, Bhagu, Kimbila và Devadatta cùng nhau rời kinh đô Ca Tỳ La Vệ tìm đến đức Phật, mang theo một vương bộc tên Upàli.
Để tránh sự chú ý, họ đã tổ chức một đoàn tùy tùng có binh mã hộ tống giống như đang đi săn bắn. Cho đến khi rời xa kinh đô, 6 Hoàng tử bèn ra lệnh cho quân lính quay về, rồi họ tiến thẳng vào một địa phận lân cận. Họ cùng thay hết y phục sang trọng và đồ trang sức, giao cho Upàli để ông có thể bán chúng đi, có cuộc sống sung túc hết đời, không cần đến chủ cũ nữa.
Nhưng Upàli khi đi về chợt nghĩ những người ở nhà rất đa nghi, nếu hiểu lầm mình đã sát hại 6 vị Hoàng tử thì dễ bị xử tội chết, thế nên ông quay lại nỗ lực đuổi theo các Hoàng tử.
Những Hoàng tử dòng họ Thích Ca khi nghe ông giải thích thấy cũng có lý vì nếu họ cùng nhau tới gặp Đức Phật chắc chắn sẽ bình an, còn quay trở về dễ gặp phải nguy hiểm.
Khi tất cả đã ra mắt Đức Phật, và được chấp thuận cho gia nhập Tăng chúng, thì các Hoàng tử muốn Ngài ban phép xuất gia đến vương bộc Upàli trước tiên. Có như thế Upàli sẽ là vị Tăng sĩ niên trưởng để các Hoàng tử phải kính trọng và làm bổn phận của những sư đệ.
Ðức Phật thấu rõ những suy nghĩ đáng khen của các Hoàng tử nên liền nhận lời. Kết quả là chỉ sau 1 năm, các vị Sa môn ấy đã đạt được những thành tích tâm linh vượt bậc.
Ðại Ðức Bhaddiya, vị thứ nhất đắc quả A La Hán với Tam thông: Túc Mạng Thông (biết hết tiền kiếp của mình), Thiên Nhãn Thông (thấy rõ mọi loài, vô hình lẫn hữu hình), và Lậu Tận Thông (tẩy sạch phiền não).
Còn A Nậu Lâu Ðà thì đắc Thiên Nhãn Thông, trở thành Thập Đại Đệ Tử của Đức Phật được người đời ngưỡng vọng. A Nan Ðà (Ànanda) đạt thánh quả Nhập Lưu (Sotapanno). Devadatta (Ðề Bà Ðạt Ða) luyện thành nhiều quyền thuật siêu nhiên. Riêng Bhagu, Kimbila và Upàli thì về sau mới đắc quả A La Hán (giống như A Nan Ðà và A Nậu Lâu Ðà).
Chỉ có Ðề Bà Ðạt Ða vì luyện thành nhiều quyền lực siêu phàm, mà trở nên ỷ lại, rồi ngã mạn và tham lam lại phát sinh, đến nỗi ông trở nên tăm tối, đi vào con đường chống Phật, phải bị đọa vào địa ngục Vô gián.
Ðại Ðức Bhaddiya, vị thứ nhất đắc quả A La Hán với Tam thông: Túc Mạng Thông (biết hết tiền kiếp của mình), Thiên Nhãn Thông (thấy rõ mọi loài, vô hình lẫn hữu hình), và Lậu Tận Thông (tẩy sạch phiền não).
Còn A Nậu Lâu Ðà thì đắc Thiên Nhãn Thông, trở thành Thập Đại Đệ Tử của Đức Phật được người đời ngưỡng vọng. A Nan Ðà (Ànanda) đạt thánh quả Nhập Lưu (Sotapanno). Devadatta (Ðề Bà Ðạt Ða) luyện thành nhiều quyền thuật siêu nhiên. Riêng Bhagu, Kimbila và Upàli thì về sau mới đắc quả A La Hán (giống như A Nan Ðà và A Nậu Lâu Ðà).
Chỉ có Ðề Bà Ðạt Ða vì luyện thành nhiều quyền lực siêu phàm, mà trở nên ỷ lại, rồi ngã mạn và tham lam lại phát sinh, đến nỗi ông trở nên tăm tối, đi vào con đường chống Phật, phải bị đọa vào địa ngục Vô gián.
2. Sự tích về A Nậu Lâu Ðà
Tìm hiểu Tôn giả A Nậu Lâu Ðà là ai thì không thể không biết câu chuyện về nhân duyên Ngài ngồi khâu áo khi đang bị mù và được Phật giúp đỡ.
Tôn giả A Nậu Lâu Ðà được mọi người vô cùng tôn trọng vì là một bậc tu hành rất thanh tịnh, thế nhưng điểm yếu của Ngài đó là hay ngủ gật mỗi khi nghe Phật thuyết pháp.
Sau vài lần bị Phật quở trách, Ngài xấu hổ nên từ đó lập hạnh “không ngủ”, chỉ ngồi mở to mắt của mình nhìn vào khoảng không, cũng không chớp mắt. Cứ như thế sau 7 ngày 7 đêm không ngủ, cho đến khi hai mắt bị sưng phù rồi mù lòa.
Sau đó, Đức Phật tự mình cầm tay chỉ dạy Tôn giả A Nâu Đà La may áo và phương pháp tu định để giúp mắt được sáng ra.
Ðức Phật thương xót nên mới dạy Ngài tu Tam muội Kim Cang Chiếu Minh. Không lâu sau, A Nậu Lâu Ðà đắc được Thiên nhãn thông, thấy rõ ba ngàn đại thiên thế giới, như thấy trái Am Ma La trên tay, dù là ở xa hay gần, bên trong hay bên ngoài, A Nậu Lâu Ðà có thể nhìn thấu được hết. Vì thế được Phật ấn chứng là Thiên nhãn đệ nhất.
Tôn giả A Nậu Lâu Ðà được mọi người vô cùng tôn trọng vì là một bậc tu hành rất thanh tịnh, thế nhưng điểm yếu của Ngài đó là hay ngủ gật mỗi khi nghe Phật thuyết pháp.
Sau vài lần bị Phật quở trách, Ngài xấu hổ nên từ đó lập hạnh “không ngủ”, chỉ ngồi mở to mắt của mình nhìn vào khoảng không, cũng không chớp mắt. Cứ như thế sau 7 ngày 7 đêm không ngủ, cho đến khi hai mắt bị sưng phù rồi mù lòa.
Có lần nọ Đức Thế Tôn đang ngồi thiền định quán chiếu nhân duyên căn tánh của muôn loài. Bấy giờ, Đức Phật nhận thấy trong tinh xá, A Nậu Lâu Ðà là người rất nỗ lực chuyên tâm tu tập nhưng vì mắt bị mù nên loay hoay mãi không vá nổi chiếc y cũ lâu ngày đang bị rách.
Đức Thế Tôn thân hành đến bên cạnh tôn giả A Nậu Lâu Đà, cất giọng từ hoà:
- A Nậu Lâu Ðà này, thầy quả là bậc kiên thệ, là bậc xứng đáng thọ nhận sự cúng dường của trời người. Tuy đôi mắt nhục nhãn của thầy không còn, nhưng ta biết thầy có một đôi mắt trí tuệ siêu phàm. Hãy đưa chiếc y của thầy để Như Lai giúp, đây là việc cần làm của tất cả mọi người.
- A Nậu Lâu Ðà này, thầy quả là bậc kiên thệ, là bậc xứng đáng thọ nhận sự cúng dường của trời người. Tuy đôi mắt nhục nhãn của thầy không còn, nhưng ta biết thầy có một đôi mắt trí tuệ siêu phàm. Hãy đưa chiếc y của thầy để Như Lai giúp, đây là việc cần làm của tất cả mọi người.
Sau đó, Đức Phật tự mình cầm tay chỉ dạy Tôn giả A Nâu Đà La may áo và phương pháp tu định để giúp mắt được sáng ra.
Ðức Phật thương xót nên mới dạy Ngài tu Tam muội Kim Cang Chiếu Minh. Không lâu sau, A Nậu Lâu Ðà đắc được Thiên nhãn thông, thấy rõ ba ngàn đại thiên thế giới, như thấy trái Am Ma La trên tay, dù là ở xa hay gần, bên trong hay bên ngoài, A Nậu Lâu Ðà có thể nhìn thấu được hết. Vì thế được Phật ấn chứng là Thiên nhãn đệ nhất.
3. Vì sao A Nậu Lâu Ðà là Thiên nhãn đệ nhất
Thiên nhãn thông hay Thần nhãn được biết tới là khả năng nhìn được mọi thứ vượt khỏi khả năng của đôi mắt phàm tình. Thậm chí "Thần nhãn" của A Nậu Lâu Ðà, theo Kinh Thanh Tịnh Đạo còn kỳ diệu hơn nữa, có thể tỏa rộng tới ngàn vạn chiều tinh thể, tức là tương đương với sự thấy rõ hàng ngàn “dãy Ngân Hà” trong Thiên văn học ngày nay.
A Nậu Lâu Ðà đã đắc thần thông này trước khi chứng quả A La Hán trong lần cùng Tăng đoàn du hành qua xứ Bạt Kỳ (Vajji). Ngài xin phép Đức Phật được dừng chân tĩnh tu. Ngài tọa thiền trong căn chòi lá nhỏ bên bìa rừng, phía sau khu vườn của một gia đình nhà nông.
Tôn giả an trú sâu dần trong các tầng mức thiền định, lúc này cả đất trời hiện diện đủ đầy trong một tia nhìn cùng khắp tường tận đến từng hạt bụi nhỏ. Ngay giây phút đó, Thiên nhãn thanh tịnh siêu nhiên bừng khởi.
Đầu tiên, vầng ánh sáng từ mắt Ngài xuyên qua lòng đất sâu thăm thẳm, chạm tới cảnh địa ngục tối tăm, nơi chúng sinh đang ngụp lặn trong khổ đau cùng cực. Sau đó, Ngài còn nhìn thấy cõi âm ở nhân gian, nơi những vong linh xấu xí, gớm ghiếc đang vật vờ khắp nơi. Họ sẽ cứ phải vật vờ, khóc lóc như thế hàng chục, hàng trăm, thậm chí hàng ngàn năm cho đến khi nào đủ duyên tái sinh lại mới thôi.
Ngài nhìn thấy cả những loài súc sinh chỉ biết sống theo bản năng mà gần như chẳng có lý trí. Sau đó Ngài nhìn thấy cõi người, cõi A Tu La, những cõi trời huy hoàng vi diệu. Cõi người phước tội đan xen, sướng khổ lẫn lộn, và cực kỳ vất vả. Thế giới của các vị thần A Tu La thì hạnh nghiệp và đức hạnh chưa tương xứng, phước rất lớn nhưng vẫn còn nóng tính, ham thích dục lạc.
Những cõi trời cực kỳ vinh quang thù thắng, chỉ dành cho những người biết đạo lý, cung kính Tam Bảo và gây được nhiều việc thiện lành. Trong khi đó, tầng trời Sắc giới đã hoàn toàn trong sạch không còn vẩn chút tính dục, cõi Phạm Thiên thanh tịnh thuần khiết và ngập tràn ánh sáng, đến cõi trời Vô Sắc thì chư Thiên không còn hình hài mà chỉ là một cõi tâm bao la, phủ trùm tất cả.
Những cõi trời cực kỳ vinh quang thù thắng, chỉ dành cho những người biết đạo lý, cung kính Tam Bảo và gây được nhiều việc thiện lành. Trong khi đó, tầng trời Sắc giới đã hoàn toàn trong sạch không còn vẩn chút tính dục, cõi Phạm Thiên thanh tịnh thuần khiết và ngập tràn ánh sáng, đến cõi trời Vô Sắc thì chư Thiên không còn hình hài mà chỉ là một cõi tâm bao la, phủ trùm tất cả.
Tôn giả A Nậu Lâu Đà còn thấy hàng triệu triệu ngôi sao lấp lánh khắp không gian, mỗi ngôi sao lại là một tinh cầu hay một mặt trời cháy sáng. Chúng vận động tạo thành những thiên hà, những tinh vân khổng lồ mà mỗi hạt bụi trong đó lại là cả một hành tinh… Nơi đó cũng có những thế giới có sự sống, những giống loài thông minh và các Đức Phật hiện thân giáo hóa.
Tôn giả A Nậu Lâu Đà mô tả Thiên nhãn của mình giống như một người đứng trên lầu cao, ở giữa ngã tư quan sát hết mọi người đi lại. Khắp cả ba nghìn thế giới, sáu cõi luân hồi vô cùng phong phú, vô cùng đa dạng nhưng tất cả đều được tạo nên bởi nghiệp quả.
Khi Tôn giả A Nậu Lâu Đà bừng khởi Thiên nhãn để quán sát khắp pháp giới thì tất cả các vị A La Hán tại tinh xá cũng đều cảm nhận đạo lực phi thường của Ngài. Tôn Giả Tân Đầu Lô Phả La Đoạ đã tán thán: “Tôn Giả A Nậu Lâu Đà nhìn thấy cả tam giới rõ ràng tường tận như xem trái xoài trong lòng bàn tay”.
Thiên nhãn đệ nhất tất nhiên cũng là hoa trái của một nhân lành đã gieo trong quá khứ. Đó là lời phát nguyện chí thành của Ngài cách đây rất lâu, trong thời Đức Phật Thắng Liên Hoa (Padumuttara).
Rồi trong nhiều kiếp, cứ mỗi khi nhân duyên bắt gặp nơi có thờ Xá lợi Đức Phật, Ngài lại bừng lên niềm kính ngưỡng và thắp sáng chánh điện với hàng ngàn ngọn đèn nến lung linh.
Tôn giả cũng hình thành nên một đức tính luôn theo Ngài qua vô lượng kiếp là luôn chú tâm quan sát đến những nỗi khổ xung quanh mình để từ đó giúp đỡ, sẻ chia cùng họ. Ngài nhìn thấy nỗi buồn thoáng qua nơi vầng trán của họ và trao cho người ta sự quan tâm tử tế. Bởi thế mà khi được thành tựu, Thiên nhãn của Ngài có thế thấu suốt hàng nghìn thế giới, thấy rõ dòng lưu chuyển của sinh tử luân hồi, soi tỏ đến từng tâm tư vi tế trong lòng của chúng sinh.
Chính Đức Phật cũng đã xác nhận trước các hàng Tăng chúng. Phật nói: "Này chư Tỳ Kheo! A Nậu Lâu Ðà là một đại Sa Môn đạt Thiên nhãn thông cao nhất".
4. Tiền kiếp của A Nậu Lâu Ðà
Thuở giáo pháp của Đức Phật quá khứ tên Kassapa (Ca Diếp - trùng tên với Thánh Tăng Ðại Ca Diếp), tiền thân A Nậu Lâu Ðà là người nghèo khó, thế nhưng vẫn thường xuyên cúng dường các bậc Phạm hạnh. Tới khi Đức Phật đã viên tịch, người hằng ngày lo chăm sóc, nhang khói ngôi bảo tháp an trí Xá lợi Phật…
Tiền thân Ngài A Nậu Lâu Ðà thường nhịn ăn mua một lễ vật khá đắt tiền là “mỡ thơm” (rút ra từ sữa bò) để đốt đèn cúng dường ngôi Bảo tháp.
Hạnh hy sinh cao quí đã luôn theo Ngài trong nhiều kiếp nên kiếp này nhờ tu thiền đắc quả, khi đạt được Thiên nhãn thông chợt nhớ lại và tự thuật qua bài kệ ngôn về những kiếp sống của mình.
Ngài từng ở trên cõi trời làm làm vua trời Ðế Thích, còn khi tái sinh xuống trần thế thì làm Đế vương. Cứ thế Ngài lên Trời, xuống làm người trong bảy kiếp. Bảy kiếp trần gian, bảy kiếp thiên đường… Mỗi kiếp đều ngồi ngôi báu đại vương nhưng kiếp nào cũng thường xuyên sống hạnh hiền đức.
Hạnh hy sinh cao quí đã luôn theo Ngài trong nhiều kiếp nên kiếp này nhờ tu thiền đắc quả, khi đạt được Thiên nhãn thông chợt nhớ lại và tự thuật qua bài kệ ngôn về những kiếp sống của mình.
Ngài từng ở trên cõi trời làm làm vua trời Ðế Thích, còn khi tái sinh xuống trần thế thì làm Đế vương. Cứ thế Ngài lên Trời, xuống làm người trong bảy kiếp. Bảy kiếp trần gian, bảy kiếp thiên đường… Mỗi kiếp đều ngồi ngôi báu đại vương nhưng kiếp nào cũng thường xuyên sống hạnh hiền đức.
Có một kiếp Ngài làm thú, đó là câu chuyện con chim câu rừng mất bạn, rất thương nhớ, rồi tình nguyện nhịn đói. Như vậy, nếu kê khai sơ lược, dựa trên Túc Sinh truyện (Jàtaka), thì tiền thân A Nậu Lâu Ðà đã có mười lăm lần sinh vào Thiên chúng, bảy lần sinh làm người, và một lần sinh làm thú.
5. Ngài A Nậu Lâu Ðà viên tịch
Sau khi Đức Phật tịch diệt, Tôn giả A Nậu Lâu Ðà cùng các đệ tử của Phật kết tập lời dạy của Ngài thành Tam tạng Kinh điển có hệ thống đó, đã lưu truyền cho đến ngày nay, xuyên qua hơn hai mươi lăm thế kỷ, và sẽ còn tiếp tục lưu truyền, gieo phúc lành cho chúng sanh, nhân loại, mãi đến thời mạt pháp, sau năm ngàn năm.
Theo Kinh Trường A Hàm thì trong Đại hội kết tập Kinh điển Phật giáo lần thứ nhất ấy, Tôn giả A Nậu Lâu Ðà đã hợp tác một cách tích cực với sư đệ là Tôn giả A Nan Đà để thuật lại toàn thể bộ Kinh Tăng Chi A Hàm.
Tôn giả A Nậu Lâu Ðà đã từ bi khuyến khích và tiếp độ vị sư đệ của ông - tôn giả A Nan Đà ngay sau khi Đức Thế Tôn tịch diệt, để đưa vị Sa Môn này vào Thánh giới giải thoát, chấm dứt vòng sanh tử luân hồi.
Tôn giả A Nậu Lâu Ðà đã từ bi khuyến khích và tiếp độ vị sư đệ của ông - tôn giả A Nan Đà ngay sau khi Đức Thế Tôn tịch diệt, để đưa vị Sa Môn này vào Thánh giới giải thoát, chấm dứt vòng sanh tử luân hồi.
Thế nhưng sự viên tịch của Tôn giả A Nậu Lâu Ðà ít thông tin nói rõ tuổi thọ, ngày giờ và địa điểm nhắm mắt chính xác của vị Thánh Tăng này, ngoại trừ những câu kết thúc một loạt hai chục bài kệ, do chính Tôn giả A Nậu Lâu Ðà nói về mình.
Theo những câu kết thúc các kệ ngôn ấy, có vẻ gián tiếp nói về nơi nhập diệt của ông. A Nậu Lâu Đà đã tìm đến một khu rừng tĩnh mịch, nơi có những khóm trúc đứng thẳng vút cao. Ngài bình yên thiền tọa, nhập sâu dần trong các tầng thiền định rồi nhẹ nhàng an trú vào Niết Bàn tịch diệt.
Theo những câu kết thúc các kệ ngôn ấy, có vẻ gián tiếp nói về nơi nhập diệt của ông. A Nậu Lâu Đà đã tìm đến một khu rừng tĩnh mịch, nơi có những khóm trúc đứng thẳng vút cao. Ngài bình yên thiền tọa, nhập sâu dần trong các tầng thiền định rồi nhẹ nhàng an trú vào Niết Bàn tịch diệt.
Xem thêm tin liên quan cùng chuyên mục: