Kính ngưỡng Phổ Hiền Bồ Tát - hướng tới ánh sáng chân lý tu hành

Thứ Tư, 05/02/2020 17:31 (GMT+07)
(Lichngaytot.com) Phổ Hiền Bồ Tát là một trong tứ đại Bồ Tát của Phật giáo, năng lực hiện thân khắp mười phương pháp giới, tùy cầu khẩn của chúng sinh mà hiện thân hóa độ. Ngài được kính ngưỡng là vị thần bảo hộ của những người tuyên giảng đạo pháp.
Mục lục (Ẩn/Hiện)


 

1. Danh xưng Phổ Hiền Bồ Tát


Phổ Hiền là danh xưng phiên âm từ tiếng Phạn, trong đó Phổ nghĩa là phổ biến, Hiền là Đẳng Giác Bồ Tát, Phổ Hiền là vị Bồ Tát Đẳng Giác có mặt mọi lúc mọi nơi, hiện thân theo cầu khẩn của chúng sinh, có năng lực và pháp giới tỏa chín phương mười cõi.

Theo Đại Nhật Kinh Sơ có viết: “Phổ Hiền Bồ Tát, Phổ nghĩa là trải khắp mọi nơi, Hiền là diệu thiện nhất. Ý nói Phổ Hiền Bồ Tát dựa hạnh nguyện phát ra từ tâm Bồ Đề và sự cân bằng của thân, khẩu, ý phổ khắp mọi nơi, diệu thiện thuần nhất, có đủ các đức, vì thế gọi là Phổ Hiền”.

Phổ Hiền là vị Bồ Tát quốc độ của Thượng Vương Như Lai, tương truyền đã lãnh đạo 500 vị Đại Bồ Tát tới nghe thuyết pháp kinh Pháp Hoa và phát tâm hộ trì chánh pháp của Đức Phật Thích Ca. Ngài đại diện cho trí tuệ, thấu hiểu muôn điều trên thế giới, nắm trong tay hào quang của tri thức, trí huệ thấu hiểu cái nhất thể của sự đồng nhất và khác biệt.

Mật Tông xưng tụng Bồ Tát Phổ Hiền là Thiện Nhiếp Kim Cương, Chân Như Kim Cương, Như Ý Kim Cương.
 

2. Sức mạnh của Phổ Hiền Bồ Tát


Trong Phật giáo, Phổ Hiền Bồ Tát cùng với Đức Phật Thích Ca Mâu Ni Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát được phong là Hoa Nghiêm Tam Thánh – ba vị có sức mạnh lớn, trí tuệ tỏa sáng và tấm lòng đức độ cứu khổ cứu nạn chúng sinh.

Xem thêm bài viết Cung dưỡng tam thánh, học đạo tu đời theo Phật, Bồ Tát để hưởng phúc

 

Thêm vào đó, Phổ Hiền Bồ Tát cùng với Quan Thế Âm Bồ Tát, Văn Thù Bồ Tát và Địa Tạng Bồ Tát được xưng là Tứ đại Bồ Tát – những vị Bồ Tát có sức mạnh và lòng từ bi bao trùm chúng sinh. Từ đó có thể thấy địa vị của vị Bồ Tát này trong Phật giáo tương đối lớn, với những ý nghĩa rất đặc biệt.

Phổ Hiền là vị Bồ Tát đại diện cho lý, định, hạnh, nắm giữ lý đức, định đức và hạnh đức của chư Phật. Nói cách khác, Ngài là hiện thân của trí tuệ, lý trí với cái nhìn hướng thiện nhưng khách quan và tầm hiểu biết sâu sắc. Sức mạnh đến từ trí tuệ, trí huệ, tức là từ lý tính và huệ nhãn, thấu suốt cõi đời, rao truyền tri thức.

Đây là loại sức mạnh chân lý vững chãi, trải qua thể nghiệm, vừa ôn hòa từ bi nhưng cũng hết sức mạnh mẽ kiên định. Tâm tính thanh tịnh, lấy Lục độ thâu nhiếp vạn hạnh, không ngại chướng ngại, vượt qua khó khăn. Vì thế mà Phổ Hiền là vị Bồ Tát bảo hộ cho những người truyền đạo, bảo hộ Phật pháp.

Những người đang khó khăn, nguy nan, thái chí nản lòng nên cầu khẩn Phổ Hiền Bồ Tát. Ngài không cứu khổ độ nạn mà hướng con người tới ánh sáng của tri thức, của thiền định, tĩnh tâm, mở rộng tất cả các giác quan và có chí hướng vươn lên phía trước, thoát khỏi những khổ ải.

Phổ Hiền Bồ Tát là vị Phật bản mệnh của người tuổi tuổi Thìn và tuổi Tị, có thể giúp đỡ, che chở vượt qua sóng gió, soi đường chỉ lối tiến tới chân tâm, nhận ra hướng đi sáng suốt với trí tuệ tuyệt vời. Thỉnh bản mệnh Phật, đeo phúc bên người, không chỉ là cầu mong sự tốt lành mà còn mang ý nghĩa hướng thiện, lúc nào cũng như Phật ở bên, điều chỉnh con người sống theo những lời dạy của Phật, tốt đời đẹp đạo.
 

3. Hình tượng Phổ Hiền Bồ Tát


Phổ Hiền là vị Bồ Tát cưỡi voi trắng sáu ngà, voi trắng là biểu tượng Phật giáo tượng trưng cho trị huệ và sự dũng cảm, vượt qua muôn ngàn chướng khổ. Sáu ngà của voi là sáu chiến công, chiến thắng sáu giác quan bình thường của con người. Có thể nói, Phổ Hiền Bồ Tát cưỡi voi trắng sáu ngà mang ý nghĩa trí huệ của ngài lớn mạnh, đủ để vượt qua tất cả những tầm thường của đời sống, tiến tới cảnh giới cao nhất.

Đồng thời, ở một ý nghĩa khác voi trắng sáu ngà có ngụ ý là sáu độ, sáu phương pháp tu hành để đạt cảnh giới Niết Bàn. Bốn chân voi là bốn loại thiền định là sơ thiền, nhị thiền, tam thiền và tứ thiền – một trong những pháp môn luyện thân tâm của nhà Phật.

Đây cũng là biểu hiện của hạnh nguyện rộng lớn bởi voi có sức chuyên chở, cũng giống như Phổ Hiền Bồ Tát mang chân lý tỏa khắp muôn nơi, đưa chúng sinh từ bờ mê bến giác đến bờ cõi đạo hạnh nhà Phật, tâm tư sáng tỏ. Dẫu muôn trùng khó khăn, Bồ Tát vẫn dùng lục đạo để đưa chúng sinh thoát khỏi bể khổ, không nền hà hiểm nguy, sẵn sàng vượt moi chông gai thử thách.

Ngoài ra, hình tượng của Phổ Hiền cũng thường xuyên gắn với những pháp khí hoặc hình ảnh quen thuộc của Phật giáo như hoa sen, ngọc như ý, trang sách ghi thần chú của Bồ Tát. Cũng có nơi hình tượng Phổ Hiền là vị Bồ Tát mặc trang phục màu trắng, mang ý nghĩa nhất thể.

 

Phổ Hiền Bồ Tát tay trái cầm ngọc như ý pháp bảo, hoặc tay phái cầm nhánh hoa sen thanh khiết bên trên có ngọc chau, ngón cái và ngón trỏ bắt ấn tạo thành hình tam giác. Hoặc cũng có thể là hình ảnh Bồ Tát tay cầm cuốn kinh, tay cầm Kim Cương Chủy.

Mỗi tạo hình Bồ Tát đều mang ý nghĩa riêng nhưng chung quy lại để thể hiện trí huệ của Phổ Hiền, là vị bảo vệ Phật pháp, coi trọng pháp giới.
 

4. Ngày vía Phổ Hiền Bồ Tát


Ngày 21/2 lịch âm hàng năm là ngày vía Phổ Hiền Bồ Tát. Trong ngày này Phật tử và chúng sinh hướng Phật làm lễ kính ngưỡng công đức của Phổ Hiền đồng thời noi gương Ngài, tiến tới chân lý, sống cuộc đời minh bạch. Ngày này nên ăn chay, đọc kinh Hoa Nghiêm và tới chùa làm lễ công quả, cúng dường chư Phật để tâm an, lòng thanh tịnh.
 

5. Hạnh nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát

 

Nhất giả Lễ kính chư Phật.
Nhị giả Xưng tán Như Lai.
Tam giả Quảng tu cúng dường.
Tứ giả Sám hối nghiệp chướng.
Ngũ giả Tùy hỷ công đức.
Lục giả Thỉnh chuyển pháp luân.
Thất giả Thỉnh Phật trụ thế.
Bát giả Thường tùy Phật học.
Cửu giả Hằng thuận chúng sanh.
Thập giả Phổ giai hồi hướng.  

Trên con đường độ hóa chúng sinh, Phổ Hiền Bồ Tát có 10 hạnh nguyện, tức là 10 điều mà Ngài nguyện sẽ hoàn thành trên con đường tu thành chính quả cũng như trong suốt những chặng đường thành Phật tiếp theo, thể hiện ý chí nguyện vọng và tấm lòng đức độ của vị Bồ Tát này.

Thứ nhất
là kính lễ chư Phật, bày tỏ niềm tôn kính về nhân cách, công đức và hạnh nguyên viên mãn của tất cả những bậc đã giác ngộ. Giữ tam nghiệp thân, miệng, ý luôn thanh tịnh, theo đúng pháp giới để cảm ứng được những điều tốt đẹp của các bậc Phật, trở về nguồn cội, phát triển vô lượng hạnh nguyện và khơi gợi công đức vốn có trong chính mình.

Thứ hai
là thường xuyên xưng tụng công đức của Phật Như Lai. Như Lai là bậc Bồ tát có đạo hạnh vô lượng vô kiếp, xưng tụng công đức, bày tỏ lòng tôn kính với Ngài đồng thời noi gương học hỏi, coi đây là điểm tựa để bản thân nhìn theo, loại bò tà niệm, thân tâm an lạc.

Thứ ba
là thờ phụng và cúng dường chư Phật. Công đức tự tâm, không chỉ tôn kính mà còn học hỏi, noi gương đức tính, đạo hạnh của những bậc giác ngộ. Tôn thờ cái đẹp, cái thiện, gieo hạnh lành, truyền hành tốt tới chúng sinh muôn loài, trường tồn vĩnh cửu.

Thứ tư
là sám hối ác nghiệp và tuân theo tịnh giới. Ăn nan những lỗi lầm, những nghiệp ác từ khởi thủy đến nay để giảm bớt những ô trọc cuộc đời. Đồng thời tuân theo tịnh giới, giữ vững khuôn phép nhà Phật để cái ác không thể khởi sinh.

Thứ năm
là tùy hỉ công đức tất cả Phật, Bồ tát và lục giới (Trời, Người, A Tu La, Địa, Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sinh) và 4 sanh (Noãn, Thai, Thấp, Hóa). Trên con đường thực hành hạnh của Bồ tát, tùy tâm hoan hỉ tiến hành công đức không phân biệt loài, thể hiện chính tâm thánh thiện, bình đẳng.

Thứ sáu
là thỉnh lễ tất cả những buổi Phật giảng pháp. Pháp là kim chỉ nam cho người tu hành, là con đường đưa chúng sinh thoát khỏi bể khổ. Phổ Hiền Bồ Tát thỉnh giác và bảo vệ lễ pháp của Đức Phật, mong muốn thấm nhuần Phật pháp và để Phật pháp truyền bá rộng khắp.

Thứ bảy
là thỉnh cầu Phật, Bồ Tát không nhập Niết Bàn mà lưu lại thế gian giảng pháp. Niết Bàn là cảnh giới tịch diệt, rũ bỏ mọi tham sân si trở về cực lạc vô ngã vô thường, tiến tới trạng tháu hoàn toàn vắng lặng. Hóa duyên đã mãn, các vị Phật và Bồ Tát đều nhập Niết Bàn nhưng Phổ Hiền Bồ Tát vì chúng sinh mà cầu đạo, muốn các bậc giác độ ở lại thế gian lưu truyền tâm ý.

Thứ tám
là theo Phật Tỳ Lô Giá Na học giáo pháp. Phật Tỳ Lô Giá Na là pháp thân của tất cả các đức Như Lai, theo Phật học pháp, trở về với nguồn gốc giác ngô để đạt thành tựu hạnh nguyện tam muội.

Thứ chín
là cúng dường chúng sinh, vì chúng sinh mà thực hiện 4 nhiếp pháp: bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự; từ đó cảm hóa chúng sinh để chúng sinh nhập thiện tâm.

Thứ mười
là hồi hướng công đức cho tất cả chúng sinh để thành Phật. Phát nguyện độ sinh, mang công đức hồi hướng về bồ đề cầu thành Phật. Đây là hạnh nguyện cuối cùng, cũng là nền tảng của 9 hạnh nguyện kể trên.

Đồng thời, trong Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện, khi giải thích mỗi một hạnh nguyện đều nhấn mạnh phải “niệm niệm chẳng ngừng nghỉ, không có gián đoạn; ba nghiệp thân, khẩu, ý không có mệt mỏi”, để chứng minh mỗi hạnh nguyện bất kể là thân hạnh, ngôn ngữ hoặc ý niệm đều phải là nguyện hạnh kiên định phát từ nội tâm, thời thời khắc khắc không có gián đoạn.

Ví dụ như trong Kinh có giải thích hạnh “lễ kính chư Phật” như sau: “khi hư không giới tận thì lễ kính mới tận; mà hư không giới thì không thể tận, nên lễ kính cũng không có cùng tận. Cũng như vậy cho đến chúng sinh giới tận, chúng sinh nghiệp tận, chúng sinh phiền não tận, thì lễ kính mới tận; mà chúng sinh giới cho đến phiền não không có cùng tận nên lễ kính cũng không có cùng tận.”
 

6. Làm thế nào để thỉnh nguyện Phổ Hiền Bồ Tát


Phổ Hiền Bồ Tát
là vị Bồ Tát đại diện cho chân lý, thờ Ngài là thờ chân lý và hiểu thấu ý nghĩa của trí tuệ, sáng suốt. Ngoài việc cung dưỡng Bồ tát, thường xuyên là những việc tốt như ăn chay, phóng sinh, bố thí, không phạm giới luật, không sát sinh, không không nghiệp, rũ bỏ tham sân si,… thì phải kính lễ Phổ Hiển bằng chính cách sống hướng tới trí huệ.

 

Bản thân cảnh tỉnh ăn năn, tránh xa mọi vọng tưởng, trở về với chân lý minh bạch nhất. Sống dưới ánh sáng chân lý mà bản thân vô minh, được soi tỏ thấu suốt mà chính mình mờ mịt, lấy giả làm thật, càng ngày càng xa cách cái tường minh thì dẫu thờ phụng Phổ Hiền Bồ Tát cũng bằng không.

Con người cần phải mở mang trí tuệ, không ngừng học hỏi, nhìn thẳng vào chân lý để có giác ngộ. Bồ Tát không giải quyết nhu cầu của chúng sinh, Ngài phổ độ, dẫn dắt để chúng sinh bỏ tối tìm sáng, bỏ ác tìm thiện, bỏ u mê tìm thấy lý tưởng đúng đắn, hướng người ta tới những giá trị đích thực của cuộc sống.

Những hạnh nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát cũng là lời nhắc nhở và mục tiêu mà bất cứ ai cũng nên tôn trọng, học hỏi. Hạnh nguyện rộng lớn, xóa tan cái vỏ ích kỷ hẹp hòi để bản thân tiến gần hơn tới giới hạn của thân tâm an lạc. Còn ích kỉ thì còn khổ đau, còn mong cầu thì còn phải khổ nạn. Từ bi vô hạn, sáng suốt vô biên, kính ngưỡng Phổ Hiền để cảnh tỉnh chính mình, mong cầu bản thân bỏ đi những thứ nhỏ nhen, tạm bợ mà con người đang vì nó tạo nghiệp khổ ngập trời.

Tin bài cùng chuyên mục: