1. Thời niên thiếu và duyên lành xuất gia
Khi cậu bé vừa chào đời đã xuất hiện một tấm y tuyệt đẹp để bọc lấy thân Ngài. Mẹ tin rằng cậu bé có phúc nên chư Thiên cúng dường và đây chính là phước. Trước điềm lành này cùng việc hạ sinh dưới gốc cây Tất Bát La nên cha mẹ đặt tên cho Ngài là Tất Bát La Da Na (Thọ Hạ Sinh).
Lúc mới sinh, Ma Ha Ca Diếp đã rất khôi ngô, tuấn tú, phong thái đẹp như tượng vàng, trên thế gian chưa có đứa trẻ nào có hình tướng đẹp đến vậy.
Cậu bé còn biết tất cả các loại tiếng: Tiếng đất chuyển động, tiếng sét, tiếng kêu của loài cầm thú,... các phép tế đàn 4 mùa, thấu hiểu thánh điển Vệ Đà.
Dường như cậu đã thấu tỏ mọi sự trong thế gian, có trí tuệ, tài lý luận đanh thép, nhạy bén, khôn ngoan. Thế nhưng càng lớn cậu càng không thích giao lưu với chúng bạn, chỉ thích ở riêng một mình.
Thầy tướng xem tướng Ngài nói: "Đứa bé này đời trước có phước đức thù thắng, lẽ ưng xuất gia". Cha mẹ ngài nghe vậy lại càng lo lắng, nhất quyết phải cưới vợ đẹp cho Ngài không còn muốn xuất gia.
Đêm đến, nếu Ngài nằm ngủ thì nàng Bạt Đà La đứng dậy đi kinh hành và ngược lại nếu nàng Bạt Đà La nằm ngủ thì Ngài lại đứng dậy đi kinh hành.
Ngài xuất gia được một năm, một tối nọ nằm mơ có một vị đầu tóc bạc bảo: Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã ra đời, hiện ở tịnh xá Trúc Lâm, ông nên đến đó để xin dạy pháp môn tu giải thoát. Ngài vui mừng đến nơi để đảnh lễ, quỳ gối xin được làm đệ tử của Đức Phật.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bảo:
- Lành thanh, này tỳ kheo Ma Ha Ca Diếp, đến đây, Như Lai nhờ người cạo râu tóc cho ông.
Khi Ngài được những vị tăng trong đoàn cạo râu tóc xong, Đức Phật cho ngài thọ giới tỳ kheo và mặc y cà sa.
Sau khi trở thành đệ tử Phật, Ngài ngày đêm tinh tấn thực hành hạnh đầu đà và không lâu sau chứng đắc quả A La Hán, với danh Đệ nhất Đầu đà.
Nhờ tinh tấn thực hành Pháp mà Bạt Đà La cũng đắc quả A La Hán trong thời gian ngắn, trở thành tỳ kheo Ni có Túc mạng thông bậc nhất bên ni chúng.
2. Sự tích về Ma Ha Ca Diếp
Suốt cuộc đời của Ngài có rất nhiều câu chuyện liên quan đến việc tế độ cho người nghèo khó, trước khi đi khất thực, Ngài thường nhập định xem: “Ta nên gieo phước cho người nghèo nào”.
Bà đau ốm, gầy còm chỉ có mảnh cót tre nhỏ để che thân và đang rất đói. Nhờ nhập định, Ngài Ma Ha Ca Diếp biết được rằng bà lão vì nhiều kiếp không biết tạo phước nên phải chịu nghèo khổ như thế này.
Không những thế, Ngài cũng biết rằng bà lão cũng không sống được lâu nữa, thế nên nếu Ngài không giúp ngay thì bà mãi mãi không có cơ hội tạo phước.
Quan sát thấy mọi chuyện, Đại Ca Diếp bước lại gần, sau đó Ngài từ tốn đưa bình bát về phía bà lão để xin đồ ăn.
Bà lão bất ngờ vì tự nhận mình là người nghèo nhất, không có gì bố thí cho tôn giả và hỏi xin xem Ngài có phép gì giúp bà hết bệnh và hết nghèo đói chăng.
Ngài Ca Diếp bảo:
- Tôi là một Tỳ kheo đang theo học đạo lý với Phật Thích Ca và đang tu khổ hạnh nên cũng đi xin như bà, nhưng lại đi bán giàu mua nghèo, bà hãy bán nghèo cho tôi để tạo nhiều phước báu giàu sang phú quý.
3. Vì sao Ma Ha Ca Diếp là Đầu đà đệ nhất
Hạnh "Đầu đà" có năng lực tịnh hóa tâm hồn, nhưng khi tu theo hạnh này cần giữ đủ 10 điều:
- Chỉ ở những nơi hoang vắng
- Sinh hoạt bằng phép trì bình
- Thường ở tại một nơi
- Ngày ăn chỉ một bữa
- Khất thực không phân biệt giàu nghèo
- Tài sản gồm có 3 y (áo), một bình bát
- Tư duy dưới gốc cây
- Thường ngồi giữa đồng trống
- Mặc áo phấn tảo
- Sống tại các bãi tha ma
Tâm nguyện muốn giữ hạnh Đầu đà, lúc nào Ma Ha Ca Diếp cũng ở trong rừng già, kinh hành hoặc tọa thiền dưới gốc cây, quán xương trắng ở bãi tha ma chẳng quản nắng mưa, sương gió... cho đến không ông râu tóc bạc phơ, thân thể gầy guộc vẫn không bao giờ chểnh mảng.
Phật dạy rằng:
- Này các Tỳ kheo! Đại Ca Diếp luôn luôn lo ngại cho tiền đồ chính pháp. Thiên ma ngoại đạo hay thế lực cường quyền không thể phá hoại chính pháp, nội tình lộn xộn, Tăng đoàn hủ hóa thiếu phạm hạnh là điều kiện chính làm cho chính pháp tiêu diệt, "Trùng trong sư tử ăn thịt sư tử."
Vì thế nếu Tăng đoàn được củng cố, giới đức trang nghiêm, nội tình ổn định hòa hợp tất yếu chính pháp được trường tồn. Để củng cố Tăng đoàn, sinh hoạt phải nghiêm túc, giới luật phải được tôn trọng giữ gìn, giới luật còn thì đạo ta còn. Người có thể chủ trì thừa kế chính pháp của ta phải là Ma Ha Ca Diếp.
Hạnh Đầu đà được Ma Ha Ca Diếp giữ cho đến hơi thở cuối cùng, không ai lay chuyển được, cho nên Đức Thế Tôn đã tôn xưng Ngài là bậc “Đầu đà đệ nhất”.
4. Tiền kiếp của Ma Ha Ca Diếp
Được biết thân hình của tôn giả Ma Ha Ca Diếp luôn sáng rực hào quang, át hết các thứ ánh sáng khác và dường như hào quang đó có khả năng hút trọn mọi nguồn sáng khác, thế nên Ngài còn được tôn xưng là "Ẩm Quang thị" - người uống ánh sáng.
Lúc ấy có một cô gái nghèo trông thấy cảnh chùa tang thương như vậy nên động lòng, lập nguyện xây chùa và giát vàng tượng Phật. Cô gái bèn đi các nơi xin cơm hóa duyên để lấy tiền mua vàng.
Trải qua mười năm hóa duyên như vậy, khi đủ số tiền có thể xây được chùa và trang nghiêm tượng Phật, cô đi kiếm một ông thợ có nghề làm vàng, để nhờ ông ta giát vàng tượng Phật.
Người thợ cảm nhận được sự hảo tâm của nàng và từ đó sẵn sàng bỏ công sức trang nghiêm tượng Phật mà không đòi tiền công phí nữa.
Khi công việc hoàn thành, người thợ vàng cầu hôn với nàng rồi cả hai phát nguyện đời đời kết nghĩa vợ chồng, cùng rủ nhau tu, quy y tam bảo xuất gia liễu đạo.
5. Ngài Ma Ha Ca Diếp viên tịch
- Ca Diếp tuổi đã già, nên ở một chỗ nhận những thức cúng dường của thí chủ, chớ đi khất thực nhọc nhằn.
- Con tuy già yếu, song không dám ở một chỗ thọ sự cúng dường của thí chủ. Vì sợ e sau này, các Tỳ Kheo đời sau sẽ nói: "Đệ tử lớn của Phật trước kia vẫn ở một chỗ thọ sự cúng dường", rồi họ sanh phóng túng.
- Xá lợi của Phật giao cho trời, người xây tháp thờ làm ruộng phước, còn trách nhiệm Tỳ Kheo chúng ta phải lo kết tập kinh điển để lưu lại đời sau.
Nhờ đó, lời dạy của Đức Phật được kết tập thành hệ thống và được chính thức lưu truyền dưới các hình thức truyền tụng, ghi chép thành kinh văn trên lá, giấy… cho đến ngày nay.
Ma Ha Ca Diếp tìm đến nơi A Nan đang du hóa để phú chúc pháp tạng, yêu cầu A Nan tiếp nối sứ mạng thừa kế truyền bá chính pháp, rồi đến 8 tháp thờ Xá Lợi phật để lễ lạy cúng dường, Ngài nói:
Ngài nhớ lời Phật dặn giữ gìn y bát của Phật đợi đến Phật Di-lặc ra đời sẽ trao lại, nên dự bị vào núi Kê Túc nhập định. Sau đó, Ngài đi từ giã vua A Xà Thế và những người thân thuộc, rồi vào núi Kê Túc trải tòa cỏ ngồi an nhiên nhập định.
Vào năm 496 Tây Lịch, Ma Ha Ca Diếp mang theo y bát của Phật đến núi Kê Túc, ngồi nhập định và nhập Niết Bàn, khi ấy Ngài 120 tuổi.
Xem thêm tin liên quan cùng chuyên mục: