Bản kinh Vu Lan báo hiếu dễ đọc cho người tụng niệm tại gia

Thứ Ba, 15/08/2017 10:08 (GMT+07)
(Lichngaytot.com) Tháng 7 mùa Vu Lan, con cái hướng về cha mẹ với tấm lòng thành kính, tụng kinh Vu Lan hồi hướng cho đấng sinh thành, diệt trừ ác nghiệp, tích thêm phúc đức. Đây là hoạt động có ý nghĩa nhân văn, nhân đạo cao cả của Phật giáo, không chỉ đề cao hiếu đạo mà còn tôn vinh đạo làm người.

Cùng nghe Kinh Vu Lan báo hiếu qua lời trì tụng của Thầy Thích Trí Thoát (file Audio)


Tải về trọn bộ Kinh Vu Lan Báo Hiếu TẠI ĐÂY!

1. Bản kinh Vu Lan báo hiếu dễ đọc cho người tụng niệm tại gia


Xuất phát từ tích Mục Kiền Liên – đại đệ tử của Đức Phật bày lễ cúng, tập hợp sức mạnh của chúng tăng để cứu mẹ thoát khỏi giới ngạ quỷ, lễ Vu lan báo hiếu được tổ chức vào Rằm tháng 7 hàng năm nhằm mục đích hồi hướng tới cha mẹ đã khuất trong hiện tại và trong 7 kiếp trước đồng thời tích phúc đức cho cha mẹ đang sống.

 
Trong ngày lễ này không thể thiếu nghi thức tụng kinh Vu Lan để cha mẹ tiền kiếp siêu sinh, cha mẹ kiếp này an lạc, nếu cha mẹ còn sống thì khuyến khích cha mẹ cùng tụng niệm, tu tập. Đó chính là đạo hiếu, thể hiện tấm lòng thơn thảo của con cái với những bậc sinh thành, dưỡng dục.
 
Kinh Vu Lan báo hiếu thường tụng trong mùa Vu Lan  từ mùng 1 tới Rằm tháng 7. Ngoài ra, ngày nào cũng có thể tụng, tụng vào thời điểm nào, ở địa điểm nào đều tốt cả.

Tốt nhất là nên tụng trước ban Phật, ban Tam bảo hoặc tượng Phật, tranh ảnh Phật. Làm lễ chay tịnh, đốt hương, dâng hoa quả rồi tiến hành tụng kinh.
 
Dưới đây là bản kinh Vu Lan phiên âm Hán – Việt dễ đọc và dễ thuộc, mời quý vị tham khảo để có thể tự tụng niệm tại gia.
 
KINH VU LAN BÁO ÂN CHA MẸ
 
(Niêm hương bạch Phật, trì chú, lạy Phật)     
(Khai chuông mõ, tán hoặc xướng bài “cúng hương”)
 
Nguyện thử diệu hương vân
Biến mãn thập phương giới
Cúng dường nhất thiết Phật
Tôn Pháp chư Bồ tát
Vô biên Thanh Văn chúng
Cập nhất thiết Thánh Hiền
Duyên khởi quang minh đài
Quá ư vô biên giới
Vô biên Phật độ trung
Thọ dụng tác Phật sự
Phổ huân chư chúng-sanh
Giai phát Bồ-đề tâm
Viễn ly chư vọng-nghiệp
Viên thành Vô thượng đạo.
Nam mô Hương Vân Cái Bồ-tát (3 lần)
 
(Đại chúng cùng tụng)
Nam mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ-tát (3 lần)
 (Xướng hoặc Tán 4 câu sau)
Phật thân sung mãn ư pháp giới
Phổ hiện nhất thiết quần sanh tiền
Tùy duyên phú cảm mỵ bất châu
Nhi hằng xử thử bồ-đề tọa.
Nam mô Thập phương thường trú Tam Bảo(3 lần)
 
(Đại chúng lạy 3 lạy rồi quỳ xuống, tiếp theo chủ sám xướng)
Khể thủ Tam giới Tôn
Quy mạng thập phương Phật
Ngã kim phát hoằng nguyện
Trì tụng Vu lan – Báo ân kinh
Thượng báo tứ trọng ân
Hạ tế tam đồ khổ
Nhược hữu kiến văn giả
Tất phát bồ-đề tâm
Tận thử nhất báo thân
Đồng sanh Cực Lạc Quốc.
 
(Đại chúng cùng tụng)
Nam mô Bổn Sư Thích Ca mưu ni Phật(3 lần)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp
Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì
Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa!
VU LAN BỒN KINH
 
(Đại chúng quỳ hoặc ngồi để tụng)
Nam mô Vu-lan Hội thượng Phật Bồ-tát (3 lần)
Phật thuyết Vu Lan Bồn kinh:
(Tây Tần Tam-Tạng Pháp-sư Trúc-Pháp-Hộ dịch)
 
Văn như thị: Nhất thời Phật tại Xá-Vệ quốc, Kỳ-thọ Cấp-Cô-Độc viên. Đại Mục-Kiền-Liên, thỉ đắc lục-thông, dục độ phụ mẫu, báo nhũ bộ chi ân; tức dĩ đạo nhãn quán thị thế-gian: Kiến kỳ vong mẫu sanh ngạ quỉ trung, bất kiến ẩm thực, bì cốt liên lập.
Mục-Liên bi ai, tức dĩ bát thạnh phạn, vãng hướng kỳ mẫu. Mẫu đắc bát phạn, tiện dĩ tả thủ chướng bát, hữu thủ chủy thực, thực vị nhập khẩu, hóa thành hỏa thán, toại bất đắc thực. Mục-Liên đại khiếu, bi hào thế khấp, trì hoàn bạch Phật, cụ trần như thử.
 
Phật ngôn: “Nhữ mẫu tội căn thâm kết, phi nhữ nhất nhân lực sở nại hà! Nhữ tuy hiếu thuận, thanh động thiên địa, thiên thần, địa kỳ, tà ma, ngoại đạo, đạo sĩ, tứ thiên vương thần, diệc bất năng nại hà! Đương tu thập phương chúng Tăng oai thần chi lực, nãi đắc giải thoát. Ngô kim đương thuyết cứu tế chi pháp, linh nhất thiết nạn giai ly ưu khổ”.
 
Phật cáo Mục-Liên: “Thập phương chúng Tăng, thất nguyệt thập ngũ nhật, Tăng tự-tứ thời, đương vị thất thế phụ mẫu, cập hiện tại phụ mẫu, ách nạn trung giả, cụ phạn bách vị, ngũ quả, cấp quán bồn khí, hương du, đính chúc, sàng phu ngọa cụ, tận thế cam mỹ, dĩ trước bồn trung, cúng dường thập phương đại đức chúng Tăng. 
 
Đương thử chi nhật, nhất thiết Thánh chúng, hoặc tại sơn gian thiền định, hoặc đắc tứ đạo quả, hoặc tại thọ hạ kinh hành, hoặc lục-thông tự tại giáo hóa Thanh Văn, Duyên Giác, hoặc thập địa Bồ-Tát đại nhân, quyền hiện Tỷ-kheo tại đại chúng trung, giai đồng nhất tâm thọ bát-hòa-la phạn. Cụ thanh-tịnh giới Thánh chúng chi đạo, kỳ đức uông dương.
 
Kỳ hữu cúng dường thử đẳng tự-tứ Tăng giả, hiện thế phụ mẫu, lục thân quyến thuộc, đắc xuất tam đồ chi khổ, ứng thời giải thoát y thực tự nhiên. Nhược phụ mẫu hiện tại giả, phước lạc bách niên, nhược thất thế phụ mẫu sanh Thiên, tự tại hóa sanh, nhập thiên hoa quang.
 
Thời, Phật sắc thập phương chúng Tăng, giai tiên vị thí chủ gia chú nguyện, nguyện thất thế phụ mẫu, hành thiền định ý, nhiên hậu thọ thực. Sơ thọ thực thời, tiên an tại Phật tiền, tháp tự trung Phật tiền, chúng tăng chú nguyện cánh tiện tự thọ thực”.
 
Thời Mục-Liên Tỳ-kheo cập đại Bồ-Tát chúng, giai đại hoan hỉ, Mục-Liên bi đề khấp thanh, thích nhiên trừ diệt.
 
Thời Mục-Liên mẫu, tức ư thị nhật, đắc thoát nhất kiếp ngạ quỉ chi khổ.
 
Mục-Liên phục bạch Phật ngôn: “Đệ tử sở sanh mẫu đắc mông Tam-Bảo công đức chi lực, chúng Tăng oai-thần chi lực cố; nhược vị lai thế, nhất thiết Phật đệ tử, diệc ưng phụng Vu-Lan bồn, cứu độ hiện tại phụ mẫu, nãi chí thất thế phụ mẫu khả vị nhĩ phủ?”
 
Phật ngôn: “Đại thiện khoái vấn! Ngã chánh dục thuyết, nhữ kim phục vấn.
 
Thiện nam tử! Nhược Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Quốc vương, Thái tử, Đại thần, Tể-tướng, Tam công, Bách quan, Vạn dân, Thứ nhân hành từ hiếu giả, giai ưng tiên vị sở sanh hiện tại phụ mẫu, quá khứ thất thế phụ mẫu, ư thất nguyệt thập ngũ nhật, Phật hoan hỉ nhật, Tăng tự-tứ nhật, dĩ bách vị phạn thực, an Vu-Lan bồn trung, thí thập phương tự-tứ Tăng. 
 
Nguyện sử hiện tại phụ mẫu, thọ mạng bách niên vô bệnh, vô nhất thiết khổ não chi hoạn, nãi chí thất thế phụ mẫu ly ngạ quỉ khổ, sanh Nhân Thiên trung, phước lạc vô cực.
 
Thị Phật đệ tử tu hiếu thuận giả, ưng niệm niệm trung thường ức phụ mẫu, nãi chí thất thế phụ mẫu, niên niên thất nguyệt thập ngũ nhật, thường dĩ hiếu từ, ức sở sanh phụ mẫu, vị tác Vu-Lan bồn, thí Phật cập Tăng, dĩ báo phụ mẫu trưởng dưỡng từ ái chi ân, nhược nhất thiết Phật đệ tử ưng đương phụng trì thị pháp”.
 
Thời Mục-Liên Tỳ-Kheo, tứ bối đệ tử hoan hỉ phụng hành.
 
Nam mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ-tát (3 lần)

2. Đôi nét về sự tích Vu Lan báo hiếu

 
Ngày Vu Lan báo hiếu 15/7 âm lịch hàng năm là ngày con cái hướng về cha mẹ. Ngày mà những ai còn có mẹ vui sướng cài lên ngực áo bồng hồng đỏ thắm còn những ai mẹ đã qua đời sẽ gắn lên áo mình bông hồng trắng thanh thuần. Đây là ngày lễ có ý nghĩa nhân văn, nhân đạo của Phật giáo, không chỉ là nghi thức tâm linh mà còn là nghi thức tinh thần.
 
Sự tích Vu Lan báo hiếu được ghi lại trong kinh Vu Lan. Theo đó Mục Kiền Liên là đại đệ tử của Đức Phật, trải qua quá trình tu tập mà được lên cõi Niết Bàn. Nhớ tới người mẹ sinh thành dưỡng dục mình, ông dùng phép thần thông soi tỏ sáu cõi để tìm mẹ thì thấy bà vì tích nhiều ác nghiệp nên đang ở cõi ngạ quỷ, phải chịu muôn vàn khổ cực, đói kém.
 
Trong lòng thương cảm, Mục Kiền Liên mang cơm tới cho mẹ ăn nhưng cơm vừa đưa vào miệng thì biến thành lửa nóng, không sao ăn được. Ông đành quay trở về cầu xin Đức Phật chỉ cách cứu mẹ. Đức Phật nói rằng chỉ có cách hợp lực chư tăng 10 phương mới có thể cứu mẹ của Mục Kiền Liên cùng những người khác được siêu độ, thoát chốn ngạ quỷ.
 
Vì thế vào ngày Rằm tháng 7 âm lịch, Mục Kiền Liên bày lễ cúng các vị Hiền Thánh tăng, thỉnh các vị chúng tăng tới cùng chú nguyện cho mẹ và những người khổ hạnh khác. Từ đó mẹ của ông mới được siêu thoát, không còn chịu khổ cực nữa.
 
Xuất phát từ tích này mà ngày rằm tháng 7 âm lịch trở thành ngày Vu Lan báo hiếu, con cái bày lễ cúng, tụng kinh Vu Lan báo hiếu cầu siêu độ cho cha mẹ 7 đời trước của mình và cầu phúc cho cha mẹ trong hiện tại. 

3. Ý nghĩa của kinh Vu Lan

 
Bài kinh thuộc Đại thừa, trong đó ghi lại sự tích ngày lễ Vu Lan và lời khuyên của Đức Phật với con cái. Con cái dù giàu có hay nghèo khổ đều có thể thể hiện lòng hiếu thảo của mình với cha mẹ trong kiếp này và cha mẹ của 7 đời trước bẳng cách bày lễ cúng vào Rằm tháng 7 âm lịch. 
 
Tụng bài kinh Vu Lan để thành tâm tưởng nhớ công đức cha mẹ và cầu nguyện cho cha mẹ được siêu độ. Nếu chúng ta cúng dường đầy đủ để tập hợp đủ sức mạnh chú nguyện thì người còn sống hưởng phúc , tăng tuổi thọ còn cha mẹ quá cố thì được tăng thiện nghiệp, đang ở cõi súc sinh, ngạ quỷ thì sẽ siêu thoát, tái sinh vào những kiếp thuận cảnh. 
 
Bài kinh hàm chứa những ý nghĩa cao diệu, nhân văn và đại từ bi theo đúng tinh thần Phật giáo. Tuy nội dung không hề đề cập tới tha lực nhưng chính bản thân nội dung đã toát lên ý nghĩa tự giác giác tha, tự lực giải thoát. Đó chính là con cái tích phúc hộ cha mẹ, là cảnh giới cao nhất của lòng hiếu thuận và sự giải thoát.
 
Con người sống trên đời đều có nghiệp, nghiệp ấy do mình tự tạo ra và cũng do mình tự gánh lấy. Cha mẹ tạo nghiệp, cha mẹ gánh nhưng phận làm con cái không phân biệt cha mẹ tốt hay cha mẹ xấu, đều một lòng muốn cho đấng sinh thành được hưởng những điều tốt đẹp nhất. 
Bài kinh Vu Lan báo hiếu gửi gắm tâm tư, nguyện vọng được gánh đỡ nghiệp của cha mẹ, nguyện vì cha mẹ mà cầu khẩn sự hợp lực của chúng tăng, độ nguyện cho siêu thoát. Không chỉ cha mẹ trong kiếp này mà còn là cha mẹ trong 7 kiếp trước, bất cứ ai cũng có thể có duyên từng là cha mẹ ta.
 
Ngày lễ thể hiện sự hiếu đạo cùng tình thương vô điều kiện giữa chúng sinh. Khi bản thân có định lực, có lòng từ bi và tuệ lực lớn lao, có tâm muốn hoàn thành đạo hiếu và muốn phát thiện tâm tới tất thảy chúng sinh thì có thể khơi dậy khả năng tự giác ngộ của người mà ta muốn cứu giúp, từ đó cởi bỏ ác nghiệp.
 
Thế nên, mỗi năm hãy tụng lên bài kinh báo hiếu ít nhất một lần vào ngày lễ Vu Lan, để tấm lòng hướng mẹ hướng cha, trọn phận làm con, trọn đạo làm người.