Những danh xưng cao đẹp Tất-đạt-đa (người thành tựu mọi ước nguyện của mình), Thích-ca Mâu-ni (bậc thánh của dòng họ Thích-ca), đức Thế Tôn (bậc tôn quý trong cuộc đời)… nhằm hàm ý về những phẩm tính siêu phàm nhất của Đức Phật đã được thành tựu và hiển lộ trọn vẹn ngay trong thời khắc huy hoàng khi Ngài thành đạo.
Đức Phật im lặng 7 tuần sau khi thành đạo
Việc Người giữ hết những hiểu biết mới mẻ này cho mình không phải vì ích kỷ mà Ngài chỉ sợ những thông tin này không được người đời chấp nhận.
Thực ra, ở thời của Ngài mọi người thiếu hiểu biết, họ đã bị dẫn dụ bằng niềm tin mãnh liệt với Thần linh và những gì đã được truyền dạy từ họ được xem là kiến thức cố định, không ai có thể chỉnh sửa, chỉ biết làm theo như một cái máy.
Ví dụ với kiến thức của mình Đức Phật biết rằng ai cũng có thể thành Phật nhưng với con người thời đó phân biệt giai cấp rõ rệt, những người nghèo luôn bị xem thường, không có tiếng nói, họ cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc chứ nói gì đến việc tu tâm hay thành Phật.
Hoặc Phật giáo không tin vào đấng sáng thế và mỗi cá nhân hoàn toàn có quyền định đoạt cuộc sống của mình, không phụ thuộc vào bất cứ ai. Kể cả quyền giải thoát cũng nằm trong tay mỗi người chứ không Thần hay Phật nào giúp được cả...
Đức Phật bác bỏ quan điểm dòng dõi và giai cấp của Bà La Môn cho rằng chỉ có người do giai cấp Bà La Môn sinh ra mới có thể thành đạo. Đức Phật cho rằng đó là do tu tập và sự phấn đấu của bản thân mọi giai cấp và con người.
Nhận thấy những luồng tư duy mới của Đức Phật không dễ dàng xâm nhập vào đời sống của người dân nên Đức Phật đành chọn cách im lặng trong 7 tuần đễ suy ngẫm. Ngài nghĩ rằng không giảng pháp cho bất kỳ ai, chỉ an trụ trong thiền định. Thế nhưng quyết định của Ngài cũng dần thay đổi sau 49 ngày suy tính.
Tuần thứ 1: Ngự tại bồ đoàn chiến thắng
Đức Phật ngồi không lay động dưới tàng cây của cội Bồ đề để chứng nghiệm hạnh phúc giải thoát (Vimuttisukha). Trong đêm cuối tuần, vào lúc đầu hôm, trong minh nhiên vắng lặng và trong suốt, đức Phật thấy rõ từng vòng khoen, dính trong nhau, tiếp lực cho nhau, tan hòa trong nhau; và, quá khứ, hiện tại, vị lai dường như không có kẽ hở nào.
Vòng luân hồi cứ thế lặp đi lặp lại, muốn chấm dứt vòng tái sanh luân chuyển chỉ cần gỡ một khoen là chúng sẽ đứt lìa, nhất là cái khoen vô minh.
Muốn tỏ tường hơn nữa, ngài quán sát chiều xuôi và chiều ngược vòng duyên khởi ấy nhiều lần. Chẳng có chỗ nào là không hiện ra một cách thông tỏ, minh bạch. Khi nhân này có thì có quả này. Có sự phát sanh của nhân này thì có quả này phát sanh. Khi nhân này không có thì quả này không thể có mặt. Nếu nhân này chấm dứt thì quả này chấm dứt.
Tuần thứ 2: Tri ân cội bồ đề
Lúc vầng dương vừa ló dạng, đức Phật xả thiền, bước ra xa chừng hai mươi tầm thốt nốt về hướng Bắc của cội Bồ đề, chăm chú nhìn cội cây ân nghĩa đã che sương đỡ nắng cho ngài suốt thời gian qua.
Ngài nhìn đúng một tuần không nháy mắt, hồi tưởng lại cuộc trường kỳ chiến đấu cam go, gian khổ, với tự thân, tự tâm, trong vô lượng kiếp, cho đến ngày nay thành đạo dưới cội Bồ đề, để rút tỉa kinh nghiệm hầu tìm ra một con đường giải thoát cho chúng sanh khỏi luân hồi đau khổ.
Hiện nay nơi đây còn có tháp kỷ niệm do vua Asoka dựng lên, tên là Animisacetiya - Bảo tháp không nháy mắt. Và tuần lễ thứ hai này được gọi là tuần lễ không nháy mắt - Animisasattāha.
Tuần thứ 3: Con đường kinh hành châu báu
Thấy rõ tâm ý ấy, đức Phật Gotama hóa ra con đường kinh hành bằng bảy loại ngọc báu chạy từ hướng Đông sang hướng Tây ở khoảng giữa của Bảo tọa chiến thắng (aparajitapallaṅka) và nơi Đức Phật nhìn không chớp mắt để cúng dường đến Thế Tôn.
Ngài còn vận dụng một loại thần thông trao truyền tư tưởng cho số chư thiên ấy biết rằng, ngài còn có chín đức tánh vô thượng, mười tuệ lực viên mãn, bốn pháp vô úy siêu việt, bốn năng lực chở che bất hại, bốn trí biện thông vô ngại, bốn vô lượng tâm với chúng sanh, ba mươi ba-la mật tối thắng, tròn đủ sáu thông, tám minh, mười lăm hạnh và còn nhiều hơn thế nữa.
Hiểu xong, biết xong, thấy xong, số chư thiên ấy hoan hỷ tán thán không hết lời. Hoa mạn-thù tung bay phất phới.
Tuần thứ 4: Bảo điện châu báu
Kể từ ngày 7 đến 13/5, Thế Tôn đi đến hướng Tây bắc cội Bồ đề, chư Phạm thiên và chư Thiên cúng dường đến Thế Tôn tòa bảo điện bằng bảy loại ngọc báu. Ngài ngự trong bảo điện và suốt tuần lễ này để quán xét về Vi diệu pháp - Abhidhamma.
Ngài soi rõ tâm của cả con kiến, con ruồi, chim, thú dữ, người mù, kẻ điếc lãng, ngạ quỷ, chư thiên, địa tiên, a-tu-la....
Sau đó, ngài hình dung, sau này, tòa nhà lầu giáo pháp, phải lấy bốn niệm xứ làm nền móng, bốn cây cột vững chắc chính là bốn thần túc, vách tường phải được dựng lên, ngăn chặn bất thiện pháp - chính là luật giới.
Rui, mè, đòn tay, các chi tiết phụ khác chính là tạng kinh. Abhidhamma chính là nóc lầu. Trong khi tuệ đi sâu vào tâm để thấy những vi tế, phức tạp của những sát na nhân duyên và duyên hệ cả thân và tâm đức Phật trở nên sáng trong và tinh khiết, tỏa ra vòng hào quang sáu màu, đó là xanh dương (nīla), vàng (pīta), đỏ (lohita), trắng (odāta), cam (maje ṭṭ ha) và trộn lẫn năm màu thành màu thứ sáu (pabhassara).
Tuần thứ 5: Cội cây Nigrodha - Ma nữ quấy rối
Tuần thứ 6: Bờ hồ Mucalinda
Sau bảy ngày thiền tịnh ở dưới cội cây Ajapālanigrodha, Thế Tôn xuất khỏi thiền tịnh. Ngài đi đến cội cây Mucalinda ở cạnh bờ hồ nằm về hướng Đông cội Bồ đề. Từ ngày 21 đến ngày 27/5, Thế Tôn trải qua bảy ngày ngồi kiết già thọ hưởng sự an lạc của đạo quả giải thoát.
Tuần thứ 7: Cội cây Rājāyatana
Sau khi trải qua bảy ngày thọ hưởng sự an lạc của đạo quả A-la-hán dưới cội cây Mucalinda và đến tuần lễ thứ bảy, Đức Phật rời khỏi chỗ đó và đi đến cội cây Rājāyatana ở về hướng nam của đại thọ Bồ đề và ngồi dưới cội cây ấy thọ hưởng sự an lạc của đạo quả A-la-hán trong bảy ngày, kể từ ngày 28 tháng năm đến ngày 5 tháng sáu.
Khi Ngài vừa độ xong trái Myrobalan thì Ngài đi đại tiện và tiểu tiện. Sau đó Sakka dâng cây chà răng lấy từ cõi rồng, và nước từ hồ Anotatta để rửa mặt. Đức Phật dùng cây chà răng, súc miệng và rửa mặt bằng nước ở hồ Anotatta và vẫn ngồi dưới cội cây Rājāyatana.
Nhưng rồi Ngài lại nghĩ: “Nếu một người bình thường thỉnh cầu, dù ta là hiện thân của lòng từ bi, ta cũng sẽ không truyền dạy lại đạo pháp. Tuy nhiên, vì tất cả mọi người đều có đức tin đối với đấng Phạm Thiên, nên nếu ông ta thỉnh cầu, ta sẽ chuyển bánh xe Pháp vì lợi ích hết thảy chúng sinh”.
(Tổng hợp)