Công cuộc dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về Thăng Long (năm 1010) của triều Lý nước Việt Nam cũng mang đậm dấu ấn của phong thủy.
Tượng đài vua Lý Thái Tổ |
Lý Công Uẩn sinh năm 974 tại làng Cổ Pháp (Tiên Sơn, Bắc Nình). Từ nhỏ, ông đã sớm bộc lộ tài năng, chí lớn khác thường. Ông làm quan thời tiền Lê đến chức Điện tiền chỉ huy sứ - võ tướng cao cấp chỉ huy quân hầu cận của triều đình. Sau khi Lê Long Đĩnh chết (năm 1009), quyền lực nằm trong tay họ Lý.
Sau khi lên ngôi, cuộc sống bình yên sau lũy đá giăng thành ở Hoa Lư không ngăn được tầm nhìn đổi mới của vị vua mở đầu triều Lý. Sử sách còn ghi: “Lý Thái Tổ lên ngôi, chưa vội làm việc khác mà trước tiên mưu tính việc định đô… Xét vì sự quyết đoán, sáng suốt, mưu kế anh hùng, thực những vua bình thường không thể theo kịp”.
Lý Công Uẩn nhận thức được rằng, Hoa Lư chỉ có vị thế núi sông hiểm trở, thích hợp với vị trí phòng ngự khi đất nước còn non trẻ. Muốn đưa đất nước phát triển, cần phải tìm một nơi mới để có thể xây dựng kinh đô thành một trung tâm chính trị, kinh tế văn hóa của một quốc gia độc lập, hùng cường. Nơi đó chỉ có thể là thành Đại La…
Thực tế, khoảng cách địa lý từ Hoa Lư ra Đại La không xa nhưng vị thế của kinh đô mới được con mắt tinh tường của một vị vua có trí tuệ xuất chúng mô tả trong “Chiếu dời đô” như sau: “Ở trung tâm bờ cõi của đất nước, được cái thế rồng cuộn hổ ngồi; vị trí ở giữa 4 phương Đông, Tây, Nam, Bắc… Ở đó, địa thế rộng mà bằng phẳng, vùng đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ vì ngập lụt, muôn vật phong phú tốt tươi. Xem khắp nước Việt ta, chỗ ấy là hơn cả, thật là chỗ hội họp của 4 phương, là nơi đô thành bậc nhất của đế vương muôn đời”.
Nhà sử học Ngô Thì Sĩ trong cuốn “Đại Việt Sử ký tiền biên” cũng đã viết về Đại La: “Núi là vạt áo che, sông là dải đai thắt, sau lưng là nước sông, trước mặt là biển, địa thế hùng mạnh là hiểm, rộng mà dài, có thể là nơi vua ở hùng tráng, ngôi báu vững bền. Hình thế nước Việt không nơi nào hơn được nơi này”.
Mùa thu tháng 7 năm Canh Tuất (1010), vua Lý Thái Tổ dời kinh đô Hoa Lư ra kinh đô lớn là Đại La kinh phủ. Tục truyền rằng: “Thuyền tạm đỗ dưới thành, có rồng vàng hiện ra ở thuyền ngự, vua nhân đó đổi tên gọi thành Đại La thành Thăng Long,… đặt tên nước là Đại Việt” (Đại Việt sử ký toàn thư).
Vị trí, điều kiện tự nhiên và tiến trình lịch sử đã tạo dựng những tiền đề cho Thăng Long là kinh đô của đất nước thời kỳ phục hưng dân tộc. Nhưng vấn đề có ý nghĩa quyết định là nhận thức ra những tiền đề đó cũng như xác nhận được yêu cầu và khả năng tạo ra sức mạnh của đất nước để xây dựng và bảo vệ nó. Những lý tưởng và suy tính của nhà vua được trình bày trong văn kiện lịch sử “Chiếu dời đô”, phản ánh một tư duy chiến lược bao quát, một tầm nhìn xa trông rộng.
Sau 2 thế kỷ xây dựng, Thăng Long đời Lý đã trở thành trung tâm chính trị kinh tế văn hóa của nước Đại Việt. Trong thời gian thịnh trị, nhà Lý đã bảo vệ vững chắc kinh đô. Cuộc xâm lăng của quân Tống đã bị đánh bại trên phòng tuyến Như Nguyệt, tạo nên một thời kỳ ổn định và thanh bình cho công cuộc kiến lập kinh thành. Thăng Long trở thành trung tâm quy tụ, kết tinh tài năng, trí tuệ dân tộc, tạo nên một phong cách riêng mà không nơi nào có được.
Sau thời Lý, lịch sử tiếp tục có những tiến trình cùng với nhiều vận hội thách thức, có những lúc thăng trầm nhưng tất cả tạo thành dòng chảy liên tục. Tuy nhiên, những gì vua Lý Thái Tổ và vương triều Lý đã tạo lập vẫn giữ vai trò quan trọng, mãi mãi được sử sách ghi nhận, để lại dấu ấn rất sâu đậm trong ký ức và tình cảm của nhân dân.
(Theo Bí ẩn thời vận)