Mạch núi căn cứ vào hướng núi được chia làm 5 loại, tức 5 thế:
- Thế chính: long mạch phát ở phương Bắc, hướng tới phương Nam.
Hình minh họa thế chính long |
- Thế nghịch: long mạch nghịch thủy hướng lên rồi theo dòng nước đi xuống.
- Thế thuận: long mạch theo thủy chảy xuống rồi lại nghịch thủy đi lên.
- Thế hồi: long mạch trở về Tổ Sơn (nơi phát nguồn của long mạch bao gồm hàng loạt núi kế tiếp nhau: Thái Tổ Sơn, Thái Tông Sơn, Thiếu Tông Sơn).
- Dương long: long mạch từ Thái Tổ Sơn lượn vòng theo hướng chiều kim đồng hồ.
- Âm long: long mạch từ Thái Tổ Sơn lượn vòng ngược chiều kim đồng hồ.
Một cách chia âm long và dương long khác là căn cứ vào phương hướng của dòng chảy 2 bên mạch núi:
- Dòng nước từ 2 bên mạch núi chảy đi, nếu dòng từ bên trái chảy sang bên phải, long mạch là dương long.
- Dòng nước từ bên phải mạch núi chảy sang bên trái, long mạch là âm long.
Cụ thể hơn, theo hình thái của mạch núi có thể chia long mạch làm 9 loại:
- Hồi long: hình thế long mạch quay đầu về Thái Tổ Sơn, như rồng liếm đuôi, hổ quay đầu.
- Xuất dương long: hình thế long mạch phát tích ngoằn ngoèo như thú xuất lâm, như thuyển vượt biển.
- Giáng long: hình thế long mạch như rồng từ trên trời lao xuống.
- Sinh long: hình thế long mạch vòng cung, mạch nhánh nhiều như chân rết, như dây leo.
- Phi long: hình thế long mạch tụ tập như nhạn bay ưng lượn, 2 cánh mở rộng như phượng hoàng nhảy múa.
- Ngọa long: hình thế long mạch như hổ ngồi, voi đứng, trâu ngủ, thế vững vàng.
- Ẩn long: hình thế long mạch không rõ ràng, mạch long kéo dài.
- Đằng long: hình thế long mạch cao xa, hiểm yếu, rộng lớn như rồng bay vút lên trời cao.
- Lãnh quần long: hình thế long mạch như hội tụ các nhánh, như đàn cá đang bơi, đàn chim đang bay.
(Theo Bí ẩn thời vận)