Các đơn vị cơ bản của Lịch gồm có ngày, tháng và năm, nhưng bạn có biết làm cách nào để con người xác định được khoảng thời gian ấy ngay từ thời xa xưa? Hãy theo dõi trong bài viết dưới đây của Lịch ngày tốt!
1. Khái niệm về thời gian và cơ sở để hình thành lịch
Cơ sở thiên văn của lịch là tìm hiểu các chu kỳ chuyển động biểu kiến của thiên thể |
Trong thời kỳ văn minh cổ đại, con người ta xác định được thời gian và xây dựng nên lịch dựa trên việc tìm hiểu các chu kỳ này qua quá trình theo dõi các chuyển động biểu kiến của các thiên thể trên bầu trời. Chuyển động biểu kiến là một chuyển động tương đối được mô tả khi quan sát từ một vị trí nào đó.
Ta đều biết, ngày là khoảng thời gian để Trái Đất tự quay quanh trục của nó; tháng là khoảng thời gian để Mặt Trăng quanh quanh Trái Đất; còn năm kết thúc khi Trái Đất quay được một vòng xung quanh Mặt Trời.
2. Một số khái niệm cơ bản trong xây dựng lịch
a. Thiên cầu và cách xác định xích kinh, xích vĩ và xích đạo trời
Thiên cầu vốn là một mặt cầu tưởng tượng. Nó có bán kính vô cùng lớn, tùy vào nhiều tài liệu ghi chép khác nhau mà tâm của nó trùng với Trái Đất hoặc chính là vị trí ta đứng để quan sát.
Trái Đất luôn chuyển động nên chúng ta mới quan sát được các thiên thể mọc ở phía Đông và lặn ở phía Tây.
Các thiên thể đều ở rất xa chúng ta nên ta coi chúng nằm hoàn toàn trên mặt của thiên cầu và gắn chặt với thiên cầu.
Chúng ta hãy tưởng tượng rằng Thiên cầu cũng đang quay. Sự quay của Thiên cầu trong một ngày đêm được gọi là Nhật động.
Thiên cầu là một mặt cầu tưởng tượng có bán kính vô cùng lớn |
Ta đã biết kinh tuyến và vĩ tuyến được dùng để xác định vị trí của bất cứ khu vực nào trên Trái Đất, ví dụ như Hà Nội nằm ở vị trí 20°53' đến 21°23' vĩ độ Bắc và 105°44' đến 106°02' kinh tuyến Đông; TPHCM nằm ở tọa độ 10°10' đến 10°38' vĩ độ Bắc và 106°22' đến 106°54' kinh tuyến Đông.
Hệ toạ độ này thích hợp cho việc thành lập bản đồ sao hay mô tả chuyển động của Mặt Trăng, Mặt Trời vì xích kinh và xích vĩ không thay đổi do Nhật động và đều không phụ thuộc vào nơi quan sát.
b. Hệ tọa độ Hoàng đạo:
Hoàng vĩ là góc tính theo chiều vĩ độ, là khoảng cách góc từ thiên thể cho đến Hoàng đạo. Góc này nằm trong mặt phẳng vuông góc với Hoàng đạo, đỉnh của nó nằm tại vị trí người quan sát hoặc chính là tâm của Trái Đất. Một cạnh nối vị trí của thiên thể trên Thiên cầu, một cạnh nằm trong mặt phẳng Hoàng đạo.
3. Cơ sở thiên văn của lịch Dương: Chuyển động biểu kiến của Mặt Trời
a. Chuyển động biểu kiến của Mặt Trời
Chuyển động biểu kiến của Mặt Trời là khoảng thời gian để Mặt Trời đi hết Hoàng đạo, tức 365.25 ngày, mà một cung Hoàng đạo là 360 độ nên mỗi ngày, Mặt Trời sẽ di chuyển khoảng 1 độ trên Hoàng đạo, theo chiều từ Tây sang Đông.
Hoàng đới được xác định khi các nhà thiên văn học lấy thêm ở mỗi phía Hoàng đạo 8 độ. Các hành tinh trong hệ Mặt Trời đều có quỹ đạo nằm trong Hoàng đới.
Chuyển động biểu kiến của Mặt Trời là khoảng thời gian để nó đi hết Hoàng đạo |
Trong thiên văn cổ, Hoàng đới gồm có 12 chòm sao đã được xác định và đặt tên gồm: Bạch Dương (Aries) đứng đầu tiên, vì nó nằm gần với điểm xuân phân, sau đó đến Kim Ngưu (Taurus), Song Tử (Gemini), Cự Giải (Cancer) và Sư Tử (Leo), Xử Nữ (Virgo), Thiên Bình (Libra), Thần Nông (Scorpicus), Nhân Mã (Sagitarius), Ma Kết (Capricornus), Bảo Bình (Aquarius) và cuối cùng là Song Ngư (Pisces).
b. Thời điểm xác định điểm phân, điểm chí và mùa:
Điểm phân
Trong ngày Xuân phân và Thu phân, thời gian ngày và đêm dài bằng nhau |
Đường xích đạo trời là một đường tròn lớn, chia Thiên cầu thành Thiên cầu Bắc và Thiên cầu Nam. Tại điểm phân, Mặt Trời sẽ đi qua đường xích đạo trời, sau đó tiến vào 1 trong 2 vùng Thiên cầu. Mặt Trời sẽ ở Thiên cầu Bắc khoảng 1/2 năm và ở Thiên cầu Nam khoảng 1/2 năm còn lại.
Mùa
Vào mùa hè, Bắc bán cầu nghiêng về phía Mặt Trời nhiều hơn nên nhiệt độ cao hơn và thời gian chiếu sáng nhiều hơn. Trong khi đó, phía bán cầu Nam sẽ nhận được ít ánh sáng Mặt Trời hơn, nhiệt độ hạ xuống và bắt đầu mùa đông.
Điểm chí
Nếu ngày Mặt Trời đi qua xích đạo trời là ngày Xuân phân và Thu phân thì ngày Mặt Trời nằm xa xích đạo trời nhất tương ứng là các ngày Hạ chí và Đông chí.
Hiện tượng Đông chí và Hạ chí lệch nhau 6 tháng ở hai bán cầu |
Tại điểm Hạ chí, tức khoảng 21/6, ở bán cầu Bắc, Mặt Trời nằm ở xa nhất về phía Bắc, lúc này ngày dài nhất và đêm ngắn nhất. Còn ở bán cầu Nam đây sẽ là thời điểm Đông chí.
Với các nước phương Tây, 4 thời điểm trên là điểm khởi đầu cho bốn mùa gồm Xuân, Hạ, Thu, Đông. Còn ở phương Đông, 4 thời điểm này lại là thời điểm chính giữa của bốn mùa.
4. Cơ sở thiên văn của lịch Âm: Chuyển động của Mặt Trăng
a. Tháng sao và tháng giao hội
Tháng sao hay tháng thiên văn là khoảng thời gian để Mặt Trăng quay trở lại vị trí đã cho trước so với các ngôi sao. Mặt Trăng di chuyển giữa các ngôi sao về phía Đông như Mặt Trời, trung bình khoảng 13° một ngày và thời gian để Mặt Trăng quay lại vị trí ban đầu là khoảng 27.3 ngày.
Tháng giao hội có số ngày dài hơn tháng sao là do, trong khi Mặt Trăng di chuyển xung quanh Trái Đất thì chính Trái Đất cũng di chuyển xung quanh Mặt Trời.
Vậy nên dù Mặt Trăng đã chuyển động xong một vòng trong tháng sao thì nó vẫn phải di chuyển thêm một khoảng cách nữa mới đạt được vị trí mới nằm cùng vị trí so với Mặt Trời như lúc đầu, nếu ta quan sát ở Trái Đất.
Muốn chọn ngày tốt, xem thêm: XEM NGÀY TỐT XẤU NĂM 2019 theo từng tháng âm lịch.
b. Pha Mặt Trăng
Các pha này có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng Lịch âm. Trong tháng giao hội Mặt Trăng lần lượt trải qua các pha gồm:
Chuyển động của Mặt Trăng trải qua 8 pha |
Thượng huyền hay còn gọi là pha bán nguyệt đầu tháng, ta nhìn thấy được một nửa của đĩa Mặt Trăng, phần được chiếu sáng nằm ở bên phải. Thời điểm này xảy ra vào khoảng giữa của đầu tháng âm lịch
Vọng hay trăng tròn, là thời điểm Mặt Trăng ở phía đối diện với Mặt Trời, bề mặt quay về Trái Đất sẽ được chiếu sáng hoàn toàn. Thời điểm xảy ra hiện tượng này là vào chính giữa tháng âm lịch, tức ngày 15 hàng tháng.
Trương huyền khuyết dần hay Trăng khuyết cuối tháng, ta nhìn thấy từ 99-51%, phần chiếu sáng nằm phía bên trái.
Trăng tàn hay còn gọi là Trăng lưỡi liềm cuối tháng, ta nhìn thấy từ 49-1%, sau khi kết thúc pha này, Trăng quay lại thời điểm Sóc.
(Tổng hợp)