Các loại giờ xấu cho con trẻ phổ biến như sau:
- Sinh phạm giờ Kim xà thiết tỏa: dễ chết yểu. Đây được xem là tối độc trong các loại phạm mà trẻ con hay gặp.
- Sinh phạm giờ Quan sát: tính khí ngang ngược, dễ mắc vòng tù tội.
- Sinh phạm giờ Diêm Vương: thần kinh không ổn định, hay giật mình, trợn trừng
- Sinh phạm giờ Dạ đề: hay khóc đêm
- Sinh phạm giờ Tướng quân: hay mắc bệnh sài đen (co giật, khóc hoài không nín)
Kết quả phân tích:
Trẻ sinh ngày: 21/11/2024 dương lịch
Tức: 21/10/2024 Âm lịch, ngày Kỷ Sửu, tháng Ất Hợi, năm Giáp Thìn
Thuộc mùa: Mùa Đông
Giờ sinh: Tý; Giới tính: Nam
Theo kết quả phân tích từ các phương pháp dân gian còn lưu truyền được thì trẻ:
- Phạm giờ Kim xà thiết tỏa- Không phạm giờ Dạ đề- Không phạm giờ Quan sát- Không phạm giờ Diêm Vương- Không phạm giờ Tướng quân
Theo dân gian, nếu trẻ sinh vào giờ Kim xà thiết tỏa là phạm rất nặng, rất khó nuôi. Tuy nhiên vẫn có cách giải giờ này để trẻ được khôn lớn, nên người. Theo sách “Dịch học tạp dụng” của thầy Trần Mạnh Linh có giới thiệu 2 cách sau:
1. Cách 1: Bán khoán lên chùa vào cửa Đức Ông, Đức Thánh trần hoặc Thánh Mẫu (hiệu quả nhẹ)
Thường thì xưa và nay, người ta bán cho Đức ông, ở chùa có tượng mặt đỏ, trùm vải đỏ, trông nghiêm nghị đầy thần khí, đặt trên bệ thờ phía tay phải nhà bái đường của ngôi chùa.
Khi tiến hành bán khoán, bố mẹ đứa trẻ lên chùa (hay vào đền, nếu bán cửa thánh) nhờ vị trụ trì hay người trông coi tại đó viết sớ, ghi rõ tên tuổi đứa trẻ, ngày, tháng, năm, giờ sinh, bán cho Đức Thánh tên là gì… kèm với mâm lễ vật (thường là lễ mặn, như xôi gà, trầu rượu, vàng hương), đặt lên bàn thờ Đức Thánh mà đứa trẻ cần bán tới, khi cúng xong (cháy 2/3 hương) thì đem hoá vàng và sớ.
Thời gian bán khoán thường từ 10 -12 năm, có khi đến 20 tuổi, sau đó mới làm lễ chuộc con về nuôi.
Trong thòi gian làm “con nuôi” Đức Thánh, các ngày lễ trọng hàng năm: như Rằm tháng Giêng, rằm tháng Bảy, Tết Nguyên đán,… bố mẹ và đứa trẻ (khi đã lớn) đến Đền, Chùa thắp hương khấn lễ “cha nuôi”.
2. Cách 2: Dùng phép Tam y để hóa giải
Bước 1: Chọn tháng ra Thiên y
Đặt cửu tinh trực nguyệt và lệ cung niên vận đồ (cung này lấy theo năm cần tính để hoá giải, xem ở phần Tam tuyệt) phi ra các hướng, xem sao nào ra cung phi bản mệnh của đứa trẻ. So sánh giữa sao này với cung phi bản mệnh của đứa trẻ nếu ra Thiên y là được (theo vòng Đại du niên bát biến).
Thìn Tuất Sửu Mùi Ngũ hoàng trung
Dần Thân Tị Hợi cư hà vị
Nghịch tầm Nhị hắc định kỳ chân”
Tức năm Tý Ngọ Mão Dậu tháng Giêng ra sao Bát bạch, tháng 2 ra sao Thất xích, tháng ba ra sao Lục bạch…)
Bước 2: Chọn ngày ra Thiên y
Đặt Can Chi tháng cần tìm (lệnh tháng) vừa chọn nói trên vào lệ cung niên vận đồ rồi thuận phi đến một ngày trong tháng đó xem ra sao nào mà phối với mệnh cung phi của đứa trẻ nếu ra Thiên y là được yếu tố thứ hai.
Bước 3: Chọn phương ra Thiên y
Chọn một trong tám phương xem phương nào phối với mệnh cung phi của đứa trẻ ra Thiên y là ta được yếu tố thứ 3.
Bước 4: Cách tiến hành hoá giải
Chọn giờ Thìn hoặc giờ Tuất ba khắc (một giờ có 8 khắc, một khắc chiếm 15 phút đồng hồ). Nếu giờ Kim xà thiết tỏa của đứa trẻ rơi vào cung Thìn thì chọn giờ Thìn 3 khắc, nếu giờ Kim xà thiết tỏa rơi vào cung Tuất thì chọn giờ Tuất ba khắc. Đưa đứa trẻ vào trong phòng khép kín cửa lại (Tránh gió, tránh ánh sáng, tắt đèn điện) đốt một đống lửa nhỏ ở phương Thiên y (có để lẫn một túm ngải cứu). Sau đó bế đứa trẻ quay mặt hướng về phương Thiên y (Mặt người bế hướng về phương Thiên y) rồi hơ qua hơ lại trên đống lửa đó (nam 7 lần, nữ 9 lần), chú ý tránh bị bỏng, chủ yếu lấy hơi ngải cứu bốc lên. Khi hơ xong bế cháu bé đó ngồi bên đống lửa đến giờ Thìn (hay Tuất) 6 khắc sau đó thì mở cửa ra. Như thế là đã xong. (Ghi chú: trẻ em gái chọn giờ Sửu hay Mùi 3 khắc hơ 9 lần)
Cách 3: Làm phép cúng để hóa giải
Cách này dân gian hay dùng hơn cả, có điều phải tìm được Pháp sư giỏi.
Việc chuẩn bị khoa cúng này khá công phu và tỷ mỷ. Phải xin gạo, tiền, chỉ khâu của 36 nhà. Sau đó gạo xay thành bột và nặn hình 12 con giống, bày trên 1 mâm lót bằng lá chuối, phần bột nặn còn thừa đắp 1 hòn giả sơn có cắm hoa lá trên đó. Phải cắt hình Thập Ngũ Qủy Vương và Thập Nhị Hóa Bà. Thập Ngũ Quỉ Vương treo trên các đoạn tre nhỏ cắm trên khoanh chuối có dắt các đồng tiền xin của 36 nhà, sau đó dùng dây chỉ đan lưới mắc lại với nhau. Thập Nhị Hóa Bà sau khi làm phép xong phải nhập vào 1 áo quan nhỏ để chôn đi. Các con giống sau khi lễ, vặt lấy mỗi con một ít đem chôn cùng, các thứ còn lại đem thả trôi sông hồ hết. Lấy 1 ít bột nặn con giống trên nấu cho trẻ ăn . Để thực hiện khoa cúng này phải do Pháp Sư cao tay mới đảm nhiệm được. Người thường không thể tự làm vì không có thần chú và phép cúng…