Cài đặt ngày sinh
Cài đặt ngày sinh (DL), giới tính để xem được nhanh nhất

10 bí quyết cổ nhân xây dựng gia đình hưng vượng, đời đời nhớ ơn

Thứ Sáu, 09/05/2025 08:34 (GMT+07)
(Lichngaytot.com) Tiết lộ từng bí quyết cổ nhân xây dựng gia đình hưng vượng mà chúng ta có thể tham khảo, học hỏi, áp dụng luôn vào trong cuộc sống của mình.
Mục lục (Ẩn/Hiện)

Cổ nhân rất coi trọng việc giáo dục con cái vì đó là việc hệ trọng ảnh hưởng không chỉ đời của họ mà còn nhiều đời sau. Dưới đây là một số bí quyết cổ nhân xây dựng gia đình hưng vượng của những nhân vật nổi tiếng thời bấy giờ như Tăng Quốc Phiên, Liễu Phàm, Mạnh Tử,...

Người xưa giáo dục con cái trọng đức hướng thiện, gửi gắm quan tâm và kỳ vọng cho đời sau. Họ nhân từ yêu thương và yêu cầu nghiêm khắc đối với con cái, giúp con cháu có thể phân biệt được đúng sai, lựa chọn đúng đắn con đường nhân sinh của chính mình.

Đây chính là tính toán lâu dài và có trách nhiệm với tương lai, là để lại nguồn tài sản đáng giá nhất cho con cháu. 

Bi quyet co nhan xay dung gia dinh hung vuong
 

1. Tăng Quốc Phiên 


16 chữ gia huấn vàng ngọc

 
là một trong "Tứ đại danh thần phục hưng cuối thời nhà Thanh", ông được hậu thế đánh giá rất cao, hết lời ca tụng vì sự liêm khiết, không vì làm quan cao mà kiêu ngạo. 

Tăng Quốc Phiên từng nói: “Gia kiệm tắc hưng, nhân cần tắc kiện; năng cần năng kiệm, vĩnh bất bần tiện”, (tạm dịch: Gia đình tiết kiệm thì ắt sẽ hưng vượng, người sống cần kiệm thì ắt sẽ khỏe mạnh, có thể cần có thể kiệm thì vĩnh viễn không ở phía dưới).
 
Điều này có nghĩa là Tăng Quốc Phiên luôn nhắc nhở con cái sống tiết kiệm, khiêm tốn để bảo toàn phước đức của bản thân và gia đình mình.

Ngay cả trước cửa nhà ông cũng không đề bảng tướng phủ, hầu phủ như những quan viên thường thấy khác. Tăng Quốc Phiên yêu cầu: “Lấy liêm chính làm luật, lấy cần kiệm làm gia phong, thề không động tới một đồng trong quân dùng vào việc riêng trong nhà”.

Khi ở kinh thành ông chứng kiến cảnh con cháu các bậc bá quan, phú hộ đều sống cuộc sống xa xỉ ăn chơi vô độ nên nhất quyết không để cho con cháu đến kinh thành sinh sống. Vợ của ông cũng ở lại quê nhà chăm sóc con cái gia đình.

Nhờ vậy mà gia tộc họ Tăng hưng vượng, đời này tiếp nối đời sau mà sinh ra các bậc anh tài. Tăng Kỷ Trạch, Tăng Quảng Quân, Tăng Quảng Thuyên, Tăng Chiêu Luân, Tăng Hiến Thực… đều là những nhân vật kiệt xuất của lịch sử Trung Hoa.

2. Liễu Phàm


4 lời giáo huấn


Thời nhà Minh, có người tên Viên Liễu Phàm ở Ngô Giang, tỉnh Giang Tô, nổi tiếng với cách ông tự mình đổi vận.

Sau đó Liễu Phàm đã đem kinh nghiệm bản thân cùng nhiều nghiệm chứng trong việc cải đổi vận mệnh để dạy con. Bằng việc tu dưỡng bản thân từng chút một thì ai cũng có thể thay đổi cuộc sống của mình.

Vì thế, ông luôn răn dạy con trai mình là Viên Thiên Khải không nên bó tay trước vận mệnh mà phải cố gắng hết sức cải đổi vận mệnh bằng cách đoạn ác hành thiện. 
 
Đoạn ác tu thiện, dứt trừ tai ương, phúc thọ miên trường. Đây chính là nguyên lý cải đổi vận mệnh.

Đừng bỏ lỡ: Câu chuyện Liễu Phàm tự mình đổi vận truyền cảm hứng cho chúng ta làm chủ cuộc đời mình 
 

3. Mạnh Tử


Không dùng quy củ thì không thành vuông tròn

 
Mạnh Tử viết: “Bất dĩ quy củ, bất thành phương viên”, ý nói làm bất kỳ việc gì mà không có quy tắc ắt không thể thành công. Những châm ngôn của Mạnh Tử, sau hàng nghìn năm vẫn có sức truyền cảm hứng lớn.

Mạnh Tử  là một học giả lỗi lạc thời Chiến Quốc ở Trung Hoa. Thời đại của ông chứng kiến sự nở rộ của các tư tưởng triết học với hàng loạt trường phái và những đại biểu xuất sắc. Đó chính là thời đại “bách gia tranh minh” (trăm nhà đua tiếng) nổi tiếng trong lịch sử.
 
Cả đời Mạnh Tử theo đuổi lý tưởng về thiện tính của con người, ông giỏi lập luận, có tài hùng biện. 
 
Sở dĩ Mạnh Tử có thể trở thành bậc thánh hiền, lưu danh thiên cổ, phần lớn đều là nhờ công đức dạy dỗ của mẹ ông. Muốn con có môi trường tốt, bà đã chuyển nhà đến gần trường học.
 
Thấy đám trẻ con đến trường siêng năng học hành, ăn nói có lễ phép, Mạnh Tử cũng bắt chước theo chúng. Mạnh Mẫu rất đỗi vui mừng: “Đây mới là nơi thích hợp để lưu lại”. Vì thế, hai mẹ con Mạnh Tử đã định cư lại nơi này.
 
Bởi vì mẹ Mạnh Tử duy trì quy tắc, chuẩn mực trong việc dạy dỗ ông, không bao giờ hạ thấp, nên Mạnh Tử mới trở thành một con người lưu danh hậu thế. 

4. Dòng tộc Gia Vương Thị  


5 điều căn bản để lập thân

 
Gia Vương Thị được xưng là đệ nhất vọng tộc của Trung Hoa. Từ thời danh thần Vương Cát triều Tây Hán đã bắt đầu tạo dựng nên sự hưng vượng của gia tộc này.

Theo ghi chép trong “Nhị thập tứ sử”, trải qua khoảng 1700 năm từ thời Tây Hán đến cuối triều nhà Đường, gia tộc họ Vương xuất sinh hơn 600 người được lưu danh sử sách, bồi dưỡng được 36 Hoàng hậu, 36 Phò mã và 35 Tể tướng.
 
Trong “Gia Vương Thị gia huấn” viết rằng: Lời nói và việc làm mà nhất trí với nhau thì chính là tín cao nhất. Đem cái tốt đẹp nhường cho người khác còn chính mình gánh vác khuyết điểm thì chính là đức cao nhất.

Truyền bá thanh danh tốt khiến thân nhân vinh hiển là hiếu cao nhất. Anh em hòa thuận vui vẻ, họ hàng hân hoan là đễ cao nhất. Đứng trước tài vật mà không bị phụ thuộc là khiêm nhượng cao nhất. Năm điều này được xem là căn bản để lập thân".
 

5. Gia Cát Lượng 


Lấy tĩnh tu thân, lấy kiệm dưỡng đức

 
Gia Cát Lượng tự là Khổng Minh, hiệu là Ngọa Long, được coi là một khai quốc công thần, nhà chính trị, ngoại giao kiệt xuất trong lịch sử Trung Quốc. Trong lịch sử, ông được ca ngợi là hình mẫu của những vị tướng tài đức vẹn toàn, là hiện thân của trí tuệ kiệt xuất.

Đến tận năm 46 tuổi mới sinh được con trai là Gia Cát Chiêm, vậy nên ông vô cùng yêu quý người con này của mình, hy vọng mai này có thể thành trụ cột của quốc gia.

Gia Cát Lượng cả đời vất vả nơi xa trường chinh chiến nhiều năm, tuy nhiên vẫn không quên trách nhiệm dạy bảo đối với con cái. Tuy thân ngoài ngàn dặm nhưng ông vẫn viết thư cho Gia Cát Chiêm, gọi là “Giới Tử Thư”.
 
Bức thứ ngắn nhưng vô cùng thâm thúy, gói trọn trí tuệ từ hơn 1.800 năm trước khiến người đời sau phải nghiền ngẫm:
 
"Nết người quân tử, tĩnh để tu thân, kiệm dùng dưỡng đức.
Không đạm bạc chí chẳng sáng soi, không tĩnh tâm tiến xa chẳng nổi.
Học cần tâm tĩnh, tài cần phải học.
Không học, tài chẳng mở mang, không chí, chẳng thành nghiệp học.
Biếng nhác ắt chẳng thể tinh thông, nóng nảy sao tu thành tâm tính.
Tháng ngày vùn vụt, ý chí qua đi, thân đã già nua, chưa hiểu sự đời.
Nhà rách sầu bi, hối thì đã muộn".
 

6. Trương Anh 


Làm người dựng lập phẩm đức

 
Đại học sĩ Trương Anh thời Thanh trong cuốn gia huấn “Thông huấn trai ngữ” do ông viết có đề cập đến việc làm người phải dựng lập phẩm hạnh, đọc kinh thư, tu thiện đức, cẩn thận uy nghi, nói năng thận trọng.

Trong gia giáo, ông không chủ trương thần sắc nghiêm nghị, mà là dùng lời nói giản dị dễ hiểu thường ngày, tỉ mỉ nhẫn nại. Ông chủ trương luôn giữ phương châm: dựng lập phẩm hạnh, đọc sách, dưỡng thân, chọn bạn.
 
Khi ông dạy con trai Trương Đình Ngọc cách đối nhân xử thế như thế nào, ông nói: “Kết giao với người, thì mỗi lời nói việc làm đều cần có ích cho người, đó là thiện nhân”, “Nếu mỗi hành động lời nói đều có thể suy nghĩ từ trong tâm vì ích lợi cho người khác mà hết sức hạn chế tổn hại người, thì người sẽ xem như Loan Phượng, quý như Nhân sâm Linh chi, tất được Trời Đất phù hộ, Quỷ Thần kính phục mà hưởng được nhiều phúc vậy!”.
 
Trương Đình Ngọc nhớ kỹ dạy bảo của cha, từ nhỏ đã đọc thuộc kinh thư, đối xử với người khác rộng lượng cung kính cần kiệm, về sau nhậm chức Đại học sĩ, Quân cơ đại thần.
 
Sau này con trai của Trương Đình Ngọc là Trương Nhược Ải tham gia thi Đình đỗ Thám Hoa (thi đỗ Tiến sĩ phân ra Nhất giáp, Nhị giáp, Tam giáp, trong Nhất giáp có ba thứ bậc là Trạng Nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa, ba bậc này còn gọi chung là Đỉnh giáp).

Sau khi Trương Đình Ngọc hay tin, ông cho rằng con trai tuổi còn trẻ, vẫn nên nỗ lực học hành, rèn luyện, tích lũy phúc đức, có như vậy mới an tâm tin cậy. Bởi vậy ông khẩn cầu đưa con trai mình xuống vị trí Nhị giáp, Hoàng Đế Ung Chính chấp nhận lời thỉnh cầu của ông, nên sửa lại Trương Nhược Ải chỉ đỗ hạng nhất Nhị giáp.
 
Về sau Trương Nhược Ải nhậm chức Quân cơ xứ tại Nam Thư Phòng. Ông noi gương cha mình, tận tụy làm tròn phận sự, giữ thân khiêm nhường liêm chính.

Mọi người đều khen ngợi gia phong Trương gia thuần hậu khiêm nhường, tâm sáng tỏ như nhật nguyệt, tổ tôn ba đời đều làm quan thanh liêm, nhân phẩm đoan chính, được lòng bách tính tin yêu.

Co nhan de cao viec day con
 
 

7. Âu Dương Tu 


Ngọc bất trác, bất thành khí

 
Âu Dương Tu là nhà sử học, nhà văn nổi danh thời Bắc Tống. Bố qua đời năm lên 4 nên mẹ ông Trịnh Thị đã giáo dục ông vô cùng nghiêm khắc. Vì nhà nghèo, bà đã lấy than củi làm mực, lấy lau sậy làm bút, lấy đất làm giấy mà dạy con học chữ.

Khi Dương Tu lớn hơn, mẹ đưa cậu đến nhà người hàng xóm để mượn sách về đọc, đôi khi còn sao chép lại nội dung của những cuốn sách ấy.

Nhờ có sự giáo dưỡng của mẹ, Âu Dương Tu đỗ đầu Tiến sĩ năm 24 tuổi. Ông từng giữ nhiều chức quan trọng yếu như: Hàn lâm học sỹ, Xu mật viện Phó sứ, Tham tri chính sự… Dưới triều vua Tống Thần Tông, ông được thăng tới chức Binh bộ Thượng thư.

Âu Dương Tu từng nói rằng: “Ngọc bất trác bất thành khí, nhân bất học bất tri đạo”. Ngọc nếu không qua mài giũa sẽ không trở thành vật dụng quý, người không học tập thì không biết được đạo lý làm người.

Ngọc vốn dĩ là vật của tự nhiên, dù không qua tạo hình thì đặc tính của nó cũng không thay đổi, còn tâm tính con người là chịu tác động của thế giới bên ngoài, dễ bị ảnh hưởng, biến hóa.

Vậy nên nếu như con người không chịu học tập ắt sẽ mất đi phẩm chất cao thượng, mất đi phẩm đức, từ đó biến thành hành vi tiểu nhân gian trá.
 
Trong gia huấn của mình, Âu Dương Tu hy vọng con cháu sau này có thể kế tục, phát huy truyền thống học hành của gia đình, có thể bắt đầu từ việc học hành chăm chỉ mà lĩnh ngộ được đạo lý làm người.
 
 

8. Tư Mã Quang


Đọc sách phải nghiêm túc


 
Tư Mã Quang (1019-1086) là nhà sử học kiệt xuất thời Bắc Tống. Ông được sinh ra trong một gia đình giàu có. Ông được sự giáo dục nghiêm khắc từ nhỏ của cả cha và anh. Ông theo học Bàng Tịch – bạn của cha ông.

Khi mới 20 tuổi, ông đỗ đầu kỳ thi tiến sĩ. Nhưng khi mới ra làm quan thì cha mẹ ông lần lượt qua đời nên ông phải về chịu tang trong 5 năm. Sau đó, Tư Mã Quang được Bàng Tịch ra sức tiến cử. Ông có cơ hội đọc sách làm sử. Ít lâu sau Bàng Tịch mất, ông thờ vợ Bàng Tịch như mẹ mình và coi các con Bàng Tịch như anh em trong nhà.
 
Tư Mã Quang sống một cuộc đời vô cùng giản dị, tiết kiệm. Thái độ làm việc của ông vững vàng và kiên định. Hơn nữa, ông đặt “tiết kiệm và giản dị” làm nội dung quan trọng nhất trong việc dạy con thành tài.

Theo sử sách ghi chép lại, Tư Mã Quang cả trong công việc và cuộc sống hàng ngày đều hết sức chú ý giáo dục con phải cố gắng tiết kiệm chi tiêu, tránh xa xỉ lãng phí.

Ông cũng không ngừng dạy con rằng: “Đọc sách cần phải nghiêm túc, làm việc cần phải kiên định, sống phải giản dị tiết kiệm. Từ bề ngoài thì thấy nó không có liên quan gì đến Quốc gia đại sự, nhưng thực chất nó là cái gốc của ‘hưng gia phồn quốc’.”
 
Một lần, ông nhìn thấy cách con trai mình giở sách thì trong lòng vô cùng tức giận. Ông nghiêm khắc dạy con phương pháp và kinh nghiệm bảo vệ sách.

Ông nói: “Trước khi đọc sách, phải lau bàn khô và sạch sẽ, trải một tấm khăn lót lên bàn. Lúc đọc sách phải ngồi có tư thế, đoan chính ngay ngắn. Khi lật trang sách, đầu tiên phải dùng cạnh ngón cái của tay phải nâng mép của trang sách lên, sau đó dùng ngón trỏ nhẹ nhàng lật trang sách.”
 
Khi khuyên nhủ con trai, ông nói: “Người đọc sách phải bảo vệ tốt cho sách.” Để hoàn thành cuốn sách bao gồm những bài học xương máu từ sự thịnh suy của các triều đại trước nhằm giữ vừng cơ nghiệp nhà Tống, Tư Mã Quang miệt mài không ngừng nghỉ làm trong  suốt 15 năm, kể cả những lúc đau ốm.
 
Ở phương diện cuộc sống thường ngày, Tư Mã Quang giản dị chất phác. Ông quan niệm rằng, y phục chỉ cần che được lạnh rét, ăn chỉ cần no bụng là được.

Ông thường giáo dục con: “Thực phong nhi sinh xa, khoát thịnh nhi sinh xỉ”, ý nói ăn uống mà sung túc thì dễ sinh ra xa xỉ, xa xỉ thì sinh ra hoang phí. Để con trai nhận thức được tầm quan trọng của tiết kiệm, ông đã viết một bài về tầm quan trọng của tiết kiệm. Trong đó, ông không tán thành cách sống xa xỉ, vô độ, cố gắng hết sức đề xướng cách sống tiết kiệm và giản dị.
 
Câu: “Do kiệm nhập xa dịch, do xa nhập kiệm nan” của Tư Mã Quang đã trở thành câu danh ngôn được người đời truyền tụng. Câu này ý nói: Từ cuộc sống tiết kiệm, giản dị chuyển sang cuộc sống xa hoa giàu có thì tương đối dễ dàng đơn giản, nhưng đã sống cuộc sống xa hoa giàu có rồi mà chuyển về cuộc sống tiết kiệm thì khá khó khăn.
 
Dưới sự giáo dục của Tư Mã Quang, con trai Tư Mã Khang của ông ngay từ nhỏ đã nhận thức rõ được tầm quan trọng của giản dị tiết kiệm. Bởi vậy mà từ nhỏ đến lớn, Tư Mã Khang luôn dùng “giản dị tiết kiệm” để tự khắc chế bản thân mình.

Tư Mã Khang từng đảm nhiệm qua các chức quan: Giáo thư lang, Trước tác lang, Thị giảng… Ông cũng dùng học vấn uyên bác, đức tính liêm khiết, cách sống giản dị tiết kiệm của mình để sao chép lại, lưu truyền cho đời sau.
 

9. Lục Du


Học quý thân hành đạo


Lục Du là thi nhân lỗi lạc thời Nam Tống, cương trực công chính không a dua nịnh bợ, một lòng lo cho dân chúng. Ông có sáu người con trai và một con gái, ông cũng rất coi trọng giáo dục đối với con cái.

Lục Du khuyên bảo các con rằng: “Chỉ mong các con sau khi trưởng thành, bà con hàng xóm đều khen ngợi các con là người có đạo đức. Cho dù làm một người dân thường, thì khi so với những người chức trọng quyền cao kia, cũng không hổ thẹn”.
 
Ông giáo dục con cái phải có tri thức hiểu lễ nghĩa, trong “Ngũ canh độc thư kỳ tử” viết rằng: Bây giờ chính là thời cơ tốt để các con đọc sách, phải khắc khổ ra sức học hành, chớ làm mất cơ hội tốt. Đọc sách trọng yếu nhất chính là học để mà dùng, phải thực sự làm được đến “Thiện ngôn minh tọa yếu cung hành” (Lời nói hay phải khắc ghi và tự thực hiện – ‘Tự Di’), “Học quý ở tự thân thực hành” (‘Kỳ nguyên mẫn’), “Tự tự vi ngôn yếu lực hành” (Từng chữ nói ra phải nỗ lực thực hiện – ‘Thụy giác văn nhi tử đọc thư’). Ông học theo khí tiết đạo đức người xưa, không nịnh bợ kẻ quyền quý, chính trực vô tư, luôn luôn nghĩ đến việc đáp đền tổ quốc.
 
Ông còn nói cho các con biết “Nhữ quả dục học thi, công phu tại thi ngoại” (nếu muốn học thơ, bản lĩnh phải ở ngoài thơ – ‘Kỳ Tử Duật’), tức là muốn viết văn thơ trước tiên phải làm người. Phải chú trọng tu thân, thường xuyên xét chính mình, có chỗ sai nhất định phải sửa; thấy người khác có hành vi tốt, phải chủ động tự giác học tập; không cần kết giao chung với những người có hoa mà không kết quả.
 
Bài thơ “Đông dạ độc thư kỳ Tử Duật” là Lục Du sáng tác vào đêm đông khi dạy con trai nhỏ Tử Duật đọc sách, tay ông nắm tay Tử Duật tập viết chữ, dạy con đọc sách nhất định phải chăm chỉ không ngừng, kiên trì bền bỉ: “Cổ nhân học vấn vô di lực, thiếu tráng công phu lão thủy thành” (Người xưa nghiên cứu học vấn không tiếc khí lực, thời trẻ bỏ ra công phu đến già mới thành công…).
 
Bài thơ “Tống Tử Long phó Cát Châu duyện” là lời khuyên tặng ông viết cho con trai thứ hai Lục Tử Long khi người con này đi nhậm chức quan ở Cát Châu. Trong thơ ông viết: “Nhữ vi Cát Châu lại, đãn ẩm Cát Châu thủy; nhất tiền diệc phân minh, thùy năng tứ sàm hủy!” [Con làm quan Cát Châu, chỉ uống nước Cát Châu; một đồng tiền cũng phải rõ ràng minh bạch, thì ai có thể tùy tiện nói xấu đây!]. Chính là ông yêu cầu con trai Tử Long làm quan công minh liêm khiết.
 
Ông còn khuyên răn con trai rằng: “Ở Cát Châu có vài bằng hữu của cha, họ chẳng những có học vấn, mà còn có phẩm đức tốt. Sau khi con đến nơi đó, có thể đến thăm họ, nhưng không được đưa ra bất kỳ yêu cầu gì đối với họ, có thể cùng họ khuyến khích động viên lẫn nhau. Không được coi trọng lợi lộc, liêm khiết giữ mình, trở thành một người toàn thân chính khí, thực sự mưu cầu hạnh phúc cho bách tính”.
 
Các con của Lục Du sau này đều trở thành những nhân tài hiền đức nổi tiếng gần xa. 
 

10. Tả Tông Đường 


Ngày không tiến, ắt sẽ lùi

 
Bí quyết cổ nhân xây dựng gia đình hưng vượng đó là sự nghiêm khắc trong việc giáo dục con cái, Tả Tông Đường từng viết: “Nghiệp học, tri thức nếu như một ngày không tiến ắt sẽ bị lùi. Học phải thời thời khắc khắc đặt tâm đối chiếu với mọi sự việc. Việc thì dù lớn dù nhỏ đều có lý của nó, không gì không thể học”.
 
Tả Tông Đường từ năm 20 tuổi đã bắt đầu tham gia khoa thi tiến sĩ, trong vòng 6 năm đã 3 lần vào kinh ứng thí, nhưng tất cả đều trượt mà về. Một người tưởng như sinh ra thất thế lệch thời, là một nho sinh rớt bảng, cuối cùng lại trở thành danh thần nhà Thanh. Chỉ mấy câu ngắn ngủi này chúng ta cũng có thể thấy bí quyết thành công của ông chính là ở chữ Nhẫn.
 
Bất luận là sự việc gì, bất luận sự việc bé nhỏ ra sao, bên trong mỗi từng sự việc đều ẩn chứa đạo lý nhân sinh và quy luật của nó. Vậy nên người học phải thời thời khắc khắc dụng tâm, có như vậy mới có thể mỗi ngày đều là một ngày tiến lên.

Xem thêm tin liên quan cùng chuyên mục:

Tin cùng chuyên mục

X