Thập can tọa chi và hành vận tốt xấu

Thứ Hai, 22/03/2010 14:17 (GMT+07)

Thập can là nói thiên can ngày sinh trong tứ trụ, xem nó có quan hệ phối hợp thế nào với các địa chi khác trong trụ năm trụ tháng, trụ ngày và trụ giờ.


Được tháng ngày giờ sinh là bởi vì thiên can trong tứ trụ không thể đem ra phân tích độc lập mà cần phải tổng hợp quan sát trụ năm tháng giờ trên cơ sở của ngày can, sau đó mới được luận tốt xấu vận khí của con người.

Được tháng được giờ đối với ngày trụ nghĩa là ngày sinh phối hợp được vận khí của tháng, giờ.

Cái gọi là hành vận tốt xấu là kết hợp với hỷ kỵ của phương hướng đại vận.

Phương hướng đại vận, ví dụ như Dần Mão Thìn thuộc Mộc mà phương vị của Mộc ở phương Đông; Tỵ Ngọ Mùi thuộc Hỏa mà phương vị của Hỏa ở phương Nam; Tỵ Dậu Tuất thuộc Kim mà phương vị của Kim ở phương Tây, Hợi Tý Sửu thuộc Thủy mà phương vị của Thủy ở phương Bắc.

Do đó có thể biết đại vận của một người nếu như vào đất Mộc của Dần Mão là hành vận phương Đông, nếu phương Đông thích ứng với hành vận của người ấy là tốt.

Trái lại mệnh thích ứng với hành vận phương Đông nhưng ngược lại hành vận phương Tây là đất Kim kỵ thì thì có thể nói mệnh vận gặp nguy hiểm.

Tranh cát tường


Hiểu được quy luật vận động của ngày can với tháng giờ và hành vận tốt xấu có thể tổng hợp lại để đưa ra phán đoán, bởi vì phán đoán này với mệnh lý là vấn đề cực kỳ quan trọng.

Ví dụ: Ngày can của một người là Giáp thuộc Mộc, tốt nhất cần sinh vào tháng Thân (tháng 7 âm lịch) và tháng Tý (tháng 11 âm lịch) là tốt. Nếu thiên can trong các trụ khác có can Canh hoặc Tân thuộc Kim thì ở vào thế giống như gỗ gặp được tay thợ khéo léo, nếu gặp được Tân thuộc Kim làm chính quan thì cũng tốt.

Trong quá trình hành vận gặp được Thân, Dậu, Kim hoặc Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thì đại vận đại phát. Bình sinh kỵ nhất Dần, Ngọ, Tuất hợp thành Hỏa cục, cùng với trong trụ thấu xuất Đinh Hỏa thương quan thì cả đời vất vả mà công việc khó thành. Nếu nó không gặp trong mệnh cục mà gặp trong đại vận thì xấu, chủ về không thuận lợi. Nếu Đinh Hỏa trong mệnh cục thấu xuất, trong tứ trụ có thiên can Mậu, Kỷ  thuộc Thổ và địa chi Thìn, Tuất, Sửu, Mùi lại hành vận tài (đối với Giáp Mộc lại nói là vận Thổ) đó là cục cách thiên quan sinh tài không những không có lợi mà còn phát phúc.

Ất Mộc thuộc dương khí Mộc đang thịnh vào mùa xuân nên cành lá tốt tươi. Nếu địa chi trong bát tự gặp Hợi, Mão, Mùi hội thành cục Mộc hoặc Thân, Tý, Thìn hợp thành cục Thủy lại hành vận phương Bắc Thủy, trong thiên can lại có Đinh Hỏa hoặc Canh Tân Kim thì đẹp. Nếu chỉ gặp Dần, Ngọ, Tuất, Hỏa hoặc Tỵ, Dậu, Sửu, Kim thì tàn tật. Nếu lại hành vận phương Nam Hỏa thì sẽ rất không may mắn.

(Theo Tử Bình nhập môn)