Mỗi người khi chào đời vì giờ sinh ở vào các trạng thái khác nhau của vũ trụ nên được hưởng khí âm dương bẩm sinh thanh trọc (trong đục), vượng suy khác nhau.
Tứ trụ (năm, tháng, ngày, giờ sinh) lấy sự vượng suy của can ngày trong tứ trụ làm trung tâm, còn những can chi khác sẽ sinh khắc, phù trợ hay hạn chế can chi ngày sinh để cấu tạo thành một hệ thống. Tổ hợp của can ngày sinh với các can chi khác trong tứ trụ là biểu tượng của âm dương ngũ hành cấu tạo thành đặc điểm của mỗi cá nhân. Phú quý, phúc họa của con người đều xuất phát từ can ngày sinh. Do đó can ngày sinh được gọi là nhật nguyên hay nhật chủ hoặc thân.
Chữ "Phúc" |
Nhật chủ là tôi, là thân mình. Quan hệ giữa tính ngũ hành của nhật chủ với tính ngũ hành của các can chi khác trong tứ trụ không ngoài chính, thiên và sinh, khắc.
Can ngày dương gặp các can dương khác là sự gặp gỡ đồng tính (cùng tính), là thiên.
Can ngày dương gặp các can âm khác là sự gặp gỡ dị tính (khác tính), là chính.
Can ngày âm gặp các can âm khác là sự gặp gỡ đồng tính, là thiên. Can ngày âm gặp các can dương khác là sự gặp gỡ dị tính, là chính.
Nhật chủ (can ngày) có mối quan hệ với các can khác trong tứ trụ và theo tính âm dương của nhật chủ với các can khác mà sinh ra 10 thần.
Ngang tôi, giúp tôi là Ngang vai
1. Ngang vai (đồng tính)
2. Kiếp tài (dị tính)
Tôi sinh là Thực thương
3. Thực thần (đồng tính)
4. Thương quan (dị tính)
Tôi khắc, bị tôi khống chế là Thê tài
5. Thiên tài (đồng tính)
6. Chính tài (dị tính)
Khắc tôi, khống chế tôi là Quan sát
7. Thiên quan (đồng tính)
8. Chính quan (dị tính)
Sinh ra tôi là Ấn thụ
9. Thiên ấn (đồng tính)
10. Chính ấn (dị tính)
Nhật chủ và 10 thần có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và là cơ sở quan trọng trong việc dự đoán theo tứ trụ.
(Theo Dự đoán theo tứ trụ)